Truyện ngắn của Lê Vạn Quỳnh: Thằng Bơ & Cái khăn mặt của thầy tôi

Vanvn- Nhà giáo ưu tú, nhà văn Lê Vạn Quỳnh quê Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội VHNT Thanh Hóa, từng đoạt Giải nhì Cuộc thi Truyện ngắn của Báo Văn Nghệ năm 2017, đã xuất bản sáu tác phẩm về truyện ngắn và chân dung văn học. Vanvn.vn trân trọng giới thiệu hai truyện ngắn của ông trong Chuyên đề Văn học xứ Thanh.

Nhà văn Lê Vạn Quỳnh

 

Chuyên đề Văn học xứ Thanh:

>> Nhà giáo xứ Thanh và những trang thơ thấm đẫm tình đời

>> “Xúc xắc mặt người”… tìm ra được gương mặt thánh thiện 

>> Lắc lư cùng Văn Đắc

>> Đọng mãi “Lời yêu” của Trần Đàm

>> Chùm thơ Mai Hương: Giữa ngổn ngang chữ nghĩa

>> Nhà văn Kiều Vượng với trường đại học Hồng Đức

>> “Màu tím hoa sim” – Bi kịch của Hữu Loan

>> Cảm nhận khi đọc “Mạch ngầm con chữ” của Thy Lan

>> Chùm thơ Anh Dũng: Ăn sương muối gội sương mai

>> Linh hồn xứ Thanh

>> Những đặc sắc của văn học Thanh Hóa

>> Nhà thơ Lâm Bằng với miền biên ải xứ Thanh

>> Chùm thơ Sơn Ca: Em chẳng muốn tình yêu là lửa nhỏ

>> Những nét tinh hoa văn hóa xứ Thanh

>> Nhà thơ Huy Trụ – Lòng như suối cạn sao đành với thơ

 

THẰNG BƠ

 

Ở vào cái tuổi của tôi và Bơ đáng phải gọi nhau bằng anh, bằng ông, nhưng tôi lại quen gọi hắn là “thằng”. Thằng Bơ. Nguyễn Văn Bơ. Hắn cùng quê với nhân vật “Khúng” của nhà văn Nguyễn Minh Châu nhưng cũng như Khúng, hắn lấy vợ người thành phố. Đường tình duyên của Bơ so với Khúng khác nhau ở hai điểm: Thứ nhất, nếu như Khúng cưa đổ cô Huệ nhờ một mình cứu hộ nàng giữa rừng sâu trong lúc nàng đang trở dạ sinh đứa con của người tình – người mà nàng vừa thương vừa giận – Sau cuộc trốn chạy khỏi chốn thị thành; còn Bơ thì khác, hắn làm đổ ngã một em kháu khỉnh, dáng điệu đàng, làn da rất, rất đặc trưng của người Tràng An; thứ hai, Khúng người quê một cục khác chi súc gỗ sần sì bụi đất bị dân đi rừng sơ ý đánh rơi, Khúng rước nàng về dinh từ cánh rừng nơi hắn ta chuyên chặt hạ cây dại làm củi rồi cột thành từng bó; và rồi bằng cái cách không thể hoành tráng hơn, Khúng đặt mẹ con nàng Huệ lên xe cút kít một bánh, bằng gỗ đặc, chở thẳng về quê; chỗ đóng đô của cả nhà Khúng cũng rất khác người, nền nhà là đất đền làng, trên đó có cái lều mà cột chống là những thanh gỗ rừng cứng, khoẻ, mái phủ bạt xin của bộ đội trên đường họ hành quân vào mặt trận phía Nam; có lẽ ông trời đã mặc định Khúng là cái lều hoang mà nàng Huệ lại thiêng quý như đất đền; thằng Bơ thì ngược lại, cô gái phải lòng hắn, bố mẹ có máu mặt, có nhà mặt phố nên hắn lập nghiệp luôn ở đây. Mà cũng phải thôi! Cái ngữ hắn, chơi ghi ta như lên đồng, giọng nam trầm ngọt, đọng, mộc như cây mà lại bảnh chẳng kém trai thành thị, thì các nàng cứ thế mà mê ly. Rõ nhất chuyện hắn và tôi cùng lớp ở Đại học, lúc đi tán mấy em khóa dưới, nhỏ thó đen đúa tôi thường bị thiệt, mắt hắn như có ma lực, các nàng nhìn rồi như bị ma ám. Nhưng đường quan lộ thì ông trời nó hãm, hắn kiên mãi mà tận cuối đời vẫn định ở cái chức phó một chi cục cấp quận. Không gặp may. Thời của hắn có bằng đại học đã hiếm nhưng ở độ tuổi ba mươi mốt, hắn lại bị cho là chưa đủ sự dày dặn để nắm cấp trưởng, cần thử thách; ngoài bốn chục phải đi học lấy bằng chính trị, khi được rồi thì lại hết tuổi cơ cấu, mãi sau này Bơ mới ngộ ra hắn bị thiếu một cái bằng; rồi tạch một cái, ngũ tuần nó ập đến thì thiên hạ họ bảo hắn chuẩn bị gỗ ván đi là vừa. Vọng và danh của bản thân, Bơ kết tóm với tôi như vậy.

Tháng trước, mấy thằng cùng lớp rủ hắn vào Thanh chơi. Tôi đi đón. Tàu vừa dừng, tôi đã nhận ra hắn, giày ba ta, quần sooc kẻ sọc áo phông, phơi ra cái đầu… hói. Tóm lại, từ đầu đến chân hắn gần như toàn màu trắng, không phải trắng tinh. Mới trông hơi bị ngầu. Chen vai giữa đám đông khách tàu ồn ả; véo nhẹ tai tôi, vẫn với cái thổ âm của quê mẹ đẻ, hắn nói như quát: “Vờ vịt hả? Thằng ni chừ đẹp trai rứa hầy!”.

Hai đứa tôi đèo nhau bằng xe máy, hắn ngồi sau ôm eo, rủ rỉ: “Tao thấy có những thứ cũ mà quý giá, như sách cũ, rượu cũ, và như tao với mày – bạn cũ – nhưng riêng tao có một thứ cũ không oke chút nào”. Vợ cũ? Tôi hỏi như muốn bóc hắn ra. Hắn cười. Chỗ này thì tôi đã tự dự báo cho mình từ trước, cô vợ thủ đô của Bơ điệu đà là vậy nhưng ngữ thằng Bơ cũng chỉ trụ được vài năm, dù hắn có nhiều tài lẻ và bảnh như trai thành thị do được ăn nhờ nước da của mẹ đẻ hắn, nhưng cái ốc ác chằn chặn quê kiểng thì mãi che sao được; tinh tươm hàng hiệu như vợ hắn, thì phải biết. Người ta đến với nhau là phận còn sống được với nhau hay không lại là duyên. Chia tay. Hắn chọn cô vợ dạy tiểu học ở quê, lo cưới lần này, hắn bảo không mất công nhiều cho việc nhờ thầy bà xem ngày xem giờ mà lại hợp. Sau hắn cạy cục đưa được vợ ra dạy một trường dân lập ở ngoại thành, có đóng bảo hiểm để sau cùng cốt kiếm cái sổ hưu. Giờ vợ chồng hắn con cái nếp tẻ đủ cả, Bơ hay nói với tôi hạnh phúc đựng trong tà áo hẹp, chẳng rõ hắn than thân hay tự thoả mãn. Tôi thì cho rằng khi về già người ta hay hoài niệm những câu thơ giờ chỉ còn trơ lại… cái vỏ của ngôn từ. . .

Tối hôm ấy, bọn tôi đãi hắn món dê núi, tại chân động Hàm Rồng. Hắn uống vội viên amplo cho ổn ổn cái huyết áp rồi vào trận khá chững chạc. Mỗi người một chuyện. Đến lượt hắn. Tôi hỏi, sống Hà Nội thế nào? “Buồn! Rất buồn. Trước buồn vì mê mải bon chen rồi đi mơ ước những chuyện trên trời; giờ buồn vì già ”. Rồi hắn kể, đi xe bus tuyến thị xã Hà Đông – Ngã Tư Sở theo đường Nguyễn Trãi, người túa ra từ nhiều phía. Lên được xe đã khó. Một bé đeo kính cận, dáng nữ sinh đứng lên nhường chỗ. Hắn tần ngần. Đám trẻ có học giờ thanh lịch thế! Cảm ơn. Hắn ngồi tựa lưng vào thành ghế. Lòng chợt buồn. Thế là hắn đã già thật ư? Ý nghĩ này làm người hắn bải hoải, chả khác xe bị xịt lốp. Một trong những họa lớn của đời người là tuổi già. Đã đành không ai tránh được, nhưng sao lại đến với hắn biệt lệ cấp số nhanh thế không biết. Có thể tất cả chỉ tội cái đầu… hói. Rồi hắn kể, một lần đi siêu thị, nhác thấy mình trong gương, hắn mới nhận ra mười mươi cái sự già nó mau đến. Vậy mà khi về quê, người lớn tuổi bảo trông hắn còn sung sức, đám trẻ hơn thì luôn miệng: Eo ôi, bao năm rồi mà bác vẫn thế! Và rồi cũng chỉ dăm ngày trước, qua đường phố Tây Sơn, đoạn gần Đại học Thuỷ lợi, lại cũng nữ sinh xinh như mộng đến dắt tay qua đường, độ chắc hắn là người quê. Những gần một phút là tới vỉa hè. Hắn hỏi, em học trường nào? “Thưa ông, Đại học Thuỷ lợi ạ!”. Nói rồi, cô gái rời tay hắn và bước thật vội. Hắn buồn. Hồn vía như đi đâu mất. Giỏ quả trên tay hắn tuột từ khi nào không biết, bưởi cam véo vó lăn bên vệ đường. Không buồn nhặt. Lần ấy hắn bảo cảm giác chẳng khác ngày mai về Văn Điển để hoả táng. Cái thằng thật lạ! Buồn khi người ta thương quý nhường chỗ cùng sự thưa kính lễ nghi đối với mình? Sắp tới cháu con mừng thượng thọ hắn cũng buồn chăng? Khi đối diện với tuổi già, người ta hốt hoảng nhận ra một cái gì đó đang chết. Không gì buồn bằng khi lòng người ta đã chết. Hắn buồn bởi cái sự yêu trong hắn hẳn như đã chết.

Nghe hắn cứ xa xót mãi về cái nỗi già, tôi bảo: Làm quen với nó đi, ông khốt ạ!. Ông phải đọc thiền mà ngấm cái cách sống và chết; lúc già, lúc tưởng không còn đáng sống sẽ khổ con khổ cháu cũng cần sự thông thái đấy! Hay gì cứ mãi ôm cái buồn mà sống được.

Mai, thằng Bơ về Hà Nội. Hai đứa rủ rỉ tới tận khuya. Tôi quờ tay tắt đèn ngủ vì nhớ mai xe tuyến chạy chuyến đầu giờ sáng và không quên dặn hắn một câu lấy lệ: “Từ giờ trở đi nên liên lạc nhiều nhiều với nhau thật vô tư cho qua giai đoạn thứ hai của đời người”.

Bóng tối vừa chụp lên căn phòng, Bơ đột nhiên bật dậy, vống lên cái thổ âm nồng và ấm: “Này, thỉnh thoảng mày cho tao một tiếng chửi nha!?”. Tôi ngạc nhiên: “Chửi! Lại thích nước mắm cáy chứ gì?” Vẫn nguyên cái tư thế nửa nằm nửa ngồi, hắn rủ rỉ dốc bầu: Hôm rồi tao về quê họp lớp, nghe mấy thằng bạn học “chửi” thấy sướng, nào là mấy bữa ni mi chết rấp ở mô mà chừ mới ló mặt; nào là, lót dạ sớm mai không hết bát phở, đem bó tiền lại mà chôn à, thằng tê? Vân vân và vân vân… Rồi giọng hắn như lạc đi: “Mày ạ, hình như chốn đô hội giờ toàn lời chúc phúc, một dạ hai vâng. Khen. Lời khen quà biếu. Chán! Lắm khi tao cứ thấy yêu chốn quê ngay cả trong sự mắng mỏ thật tình”. Chao ôi! Thì ra bạn tôi – thằng Nguyễn Văn Bơ – sau quãng đời tranh đấu cho cuộc mưu tìm chỗ đứng ở đời, giờ thấy thèm thấy khát sự chân thành dù dấu sau một tiếng chửi, một câu trách cứ. Khác chi người quê hắn thèm ớt chỉ thiên. Hắn sợ cái vị lợt lạt của tình đời rồi. Lặng đi đôi chút, hắn kể: Tuần rồi đang tơ mơ giấc ngủ trưa, loáng thoáng nghe tivi cáo phó, hấp háy hé mắt thấy người dẫn chương trình mặc lễ phục màu đen nói ông A, ông B từ trần, phát tang, ngày và giờ, và địa điểm an táng. Thì ra mấy lão ấy chưa chết. Mình quá vô cảm. Và, biết đâu nhiều thằng lâu nay cũng coi mình như là thứ xác chết biết đi ?

Thằng Bơ về Hà Nội đã được mấy ngày. Thấy nhớ. Cả cái sự buồn cùng nỗi sợ hãi của hắn. Nỗi sợ người ta quên mình. Thời gian khuất lấp cả hình lẫn tiếng cũng là một thứ chết thấy được. Bây giờ thì có lẽ hắn đang vui vầy bên con cháu hay săm soi chút hương vị từ đống sách báo cũ nhàu nhưng cái bộ dạng tài tử, đi giày bata, áo phông quần sooc kẻ sọc, cái đầu hói để trần, tất cả đều màu trắng cứ ám ảnh tôi hoài.

Tôi thích cái màu trắng không tinh tươm nhưng hơi bị ngầu của Bơ và tôi rất nhớ hắn bảo thỉnh thoảng gửi cho hắn một câu “chửi”.

Cái thằng… vậy là hắn vẫn còn đi trong cuộc đời bé mọn của tôi!

Tranh của họa sĩ Thành Chương

   CÁI KHĂN MẶT CỦA THẦY TÔI

 

Hà Nội người ta ngủ khuya thật. Lọ mọ dậy từ lúc bốn giờ nghe xung quanh im ắng, ra đường đi bộ lấy chút khí trời giờ này dễ bị cảm lạnh. Lại nằm xuống tìm cái iphone – con gái vừa gửi tặng – ngắm, mở, vuốt màn hình chém gió tí. Khó quá. Chức năng loạn xì ngầu. Vợ còn dậy sớm hơn, bà trao tôi cốc lip ton nước còn nóng giòn rồi khẽ khàng nói: Anh bớt dùng điện thoại đi, hại mắt. Nói rồi, vợ đặt vào tay tôi chiếc khăn bông trắng, nói nhỏ như chỉ muốn mình tôi nghe: ‘‘ Cái Thuỷ mới mua lúc chiều khi nó qua siêu thị, anh dùng tốt và hợp đấy!’’ Bà xã biết tính tôi bặt đâu hay đấy lại có tí bệnh tiếc của nên không giới thiệu thêm về chiếc khăn, giá cả và xuất xứ, là điều tôi không thích nghe. Quả đây là chiếc khăn đẹp, xịn, lô gô ghi chữ Hàn Quốc. Vuông vải vừa vặn, không hoa văn, và cơ bản nó không trìu trĩu, nhẹ, khá nhẹ, nó hợp với người già. Không phải chỉ thứ này, lúc chiếc khăn len giữ ấm, khi gói trà ô long hoặc lon sữa trước lúc tôi lên tàu về lại quê, con dâu tôi nó chỉn chu như thế.

Tự dưng tôi thấy mình như bị một cú vấp. Huyết áp! Không! Tôi mới kiểm tra tuần rồi, bác sỹ nói còn ổn mà. Bình tâm lại, nhớ ra, tôi đứng lên mở tủ, lục tìm ngăn trên cùng, nơi tôi cất những kỷ vật: tượng đồng hồ Big Ben, khuôn hình đấu trường La Mã, tháp Ep phen rồi ảnh chụp năm 1996 có cảnh Võ Đại tướng vui cùng đoàn học sinh dự thi Olimpic Hoá quốc tế từ Liên bang Nga về. Cái điều tôi chợt nhớ ra lúc vợ trao chiếc khăn mặt, là nhớ về chiếc khăn mặt của thày tôi – quê tôi gọi bố đẻ ra mình là thày – chiếc khăn tôi không cho liệm vào quan tài cũng như không cho đốt gửi theo vong linh người như phong tục đối với người chết…

*

Vâng! Đó là chiếc khăn mặt của thày tôi, một vuông vải sợi xô màu cháo lòng, rộng độ hơn gang tay, chiều dài gấp đôi chiều rộng. Gọi là khăn mặt nhưng thày tôi ít dùng nó. Ông có lối rửa mặt đơn giản mà hiệu quả; nếu là chậu nước, bàn tay thày khum khum vục vào chậu, còn nếu nước chảy ra từ vòi, một tay ông khẽ khàng đỡ lấy ngọn nước, tay còn lại sẽ khoá chặt vòi khi nước đã vừa lòng bàn tay, sau đó thày tấp mạnh nước vào mặt, vào cổ. Mùa nóng ông không dùng khăn để lau lại mà để nguyên thế cho mát.

Chiếc khăn mặt được thày dùng chính yếu cho việc lau mồ hôi. Mồ hôi thày tôi luôn túa ra lớp nhớp như những giọt dầu lỉ rỉ từ cỗ máy đã cũ. Vậy mà có lần tôi bị sốt cao, nó được ông nhúng đẫm nước, vắt khô doa vào cổ, chùi sâu tận bẹn; sau cùng ông vò nó thật kỹ bằng nước sạch rồi cuộn gấp, đặt ngang trán tôi. Một kiểu hạ nhiệt nhanh gọn mà hiệu quả.

Thày tôi sống nghề mộc. Trước lúc đi làm xa, ngoài những khoan đục được xếp trong cái bị bằng cói, ông thường dắt cái roi mây ở xói nhà, đuôi roi lòi ra độ gang tay rồi gọi tôi lại, nhắc: Lớn bằng nửa cây sào rồi, chơi nhởn học hành có giờ có giấc, cái roi để đó, con nhớ chưa? Thày lặng nhìn tôi giây lát, bốn chục tuổi cảnh gà trống nuôi con, lúc nào trông ông cũng khó nhọc và khe khắt. Nói vậy chứ cái roi lại ít được dùng, cả tháng xa nhà, thày chỉ thỉnh thoảng tạt qua gửi bà nội tôi mấy đồng chi tiêu. Là người tham công tiếc việc, thì giờ ông còn chẳng đủ để ngủ nghê nói gì đến việc đe nẹt con cái. Duy có một lần cái roi được làm việc cho cả hai chị em cùng thằng cháu gọi thày tôi bằng cậu, cả ba đứa bỏ học xem bộ đội chuẩn bị trận địa pháo tận chân núi Trường Lệ rồi còn rủ nhau tắm biển đến tối ngày. Chõng tre đặt trên hè nhà, ông ngồi giữa, một bên có cuốn sổ, trên có đặt cái bút chì dùng để tính toán gỗ lạt, bên còn lại đặt cái roi mây.

Thày cho ba đứa nằm xếp hàng úp mặt trên sân đất nện; tôi là đứa bày trò nên thày gọi trước; tôi nằm ép sát người vào bờ hè, tiếp đến thằng em, chị gái nằm ngoài cùng. Thày chỉ phải giơ roi một lần mà cả ba đứa đều bị roi quất; nằm sát bờ hè tôi im thít do không bị đau, chị tôi thì khóc thé vì bị cuối roi.

Mẹ mất sớm, tôi có hai bà mẹ kế. Dì thứ nhất không hợp tính bà nội, dì chỉ sống với thày tôi độ vài năm rồi trở về nhà bố mẹ đẻ. Tôi nhớ có lần nhặt được mảnh giấy thày viết gửi dì, chữ kềnh càng nét nghiêng như dáng ông lúc ngồi một mình cưa cây gỗ to, đại ý ông nói vẫn rất nhớ dì, còn về ở hẳn bên đó – nhà bố mẹ đẻ dì – thì không thể, ông nói ông là cháu đích tôn còn phải giữ chân bàn thờ cho cả họ Lê Vạn.

Nghề của thày tôi chưa ráo mồ hôi đã hết tiền. Lạ nhất, ông lại muốn truyền cho tôi sự khó nhọc đó. Có bận, thấy thày một mình vần cây gỗ to, tôi nhón nhén lại định trợ sức, ông ẩy tôi ra. Và, khi nhìn tay tôi run run cầm giúp một đầu dây để ông vạch đường kẻ mực trên một tấm ván, ông bảo, thôi! Nhớ nhất cái hôm ông nhờ tôi cầm một đầu cưa cắt ngang thân cây xoan to, đáng ra cứ để lưỡi cưa tự nhiên thì tôi lại ấn mạnh làm lưỡi cưa bị mắc kẹt. Sau khi lách được cưa ra thì lưỡi đã bị xoắn vênh, ông vứt nó vào góc nhà, giọng lạc đi: ‘‘Thôi lo mà học, sau mài chữ ra mà ăn, con ạ!’’. Lại bàn học chưa kịp đụng vào chồng sách vở thì tôi thấy thày đang mở gói nhỏ bọc kín bằng mấy lần nilon. Ông đang lật đếm từng tờ giấy bạc; đa phần chúng đã xỉn màu. Món nợ mười đồng nhà chú Đệnh thày sắp đến hạn phải trả.

Thày tôi có vốn từ vựng ít ỏi. Tối nằm cùng giường thày vẫn tranh thủ giảng giải giúp tôi phân biệt cho được thi hội khác thi đình, đậu thám hoa khác đậu bảng nhãn ở những điểm nào. Nhưng nhớ nhất sau mỗi lần đục vào đầu tôi mấy chữ ông học mót từ vị tổ sư nghề mộc, thày lại trao tôi nắm xôi được ông vo tròn như quả trứng gà so; ông đã bớt nó từ tiệc hồi công của chủ nhà đãi thợ. Tôi nhấp nháp lọn xôi thấy ngon nhưng đăng đắng vị thuốc lào cùng mằn mặn cái vị mồ hôi của thàytôi.

*

Ngoài bảy mươi thày tôi vẫn khoẻ, đi đứng mạnh bạo như người mới trung niên. Nghe vợ chồng tôi khởi công đặt móng nhà, tận dưới quê thày sốt ruột lục tục dậy từ lúc ba giờ sáng; ông lôi chiếc xe đạp từ xói nhà rồi cho nó tựa vào đụn rơm phía bên sân và cột riêng từng thứ; trước nhất là cái bị cói đựng đồ nghề như mũi khoan, lưỡi bào, chàng đục, viên đá mài và cuối cùng là chiếc cưa. Tất cả đều được cột trước bằng sợi dây chất vải dù nhưng cuối cùng thày vẫn néo thêm dây cao su. Ông bảo làm vậy để khỏi rơi dọc đường, vừa mất đồ lại dễ gây tai nạn cho xe đạp xe máy phóng qua.

Chưa đầy ba tháng nhà tôi đã rậm rịch hoàn thiện; lúc vắng thợ, thày tỉ mẩn tìm chỗ gỗ vặt, cưa cắt đục đẽo làm nên nhiều vật dụng, cái chạn đựng bát, chiếc ghế thấp ngồi nhặt rau, cái khung ảnh…

Một lần từ gian nhà được phân ở khu tập thể tôi sang xem nhà mới, tôi thấy xuất hiện chiếc tủ hai buồng, đặt ở góc phòng khách, mặt quay ra bàn trà nước, xung quanh còn ngổn ngang những mảnh gỗ vụn. Chiếc tủ trông dày dặn, nó rộng chừng một mét tư, cao ngang đầu tôi, mọng mị đều tăm tắp nhưng màu và vân gỗ thì vênh nhau, chỗ vàng chỗ nâu. Lúc đó, đáng lý tôi phải hồ hởi động viên hoặc ra phố mua giúp hộp vec ni cho thày đánh gỗ cho đồng màu nhưng hâm dở nó xui, sau khi xem mặt trước mặt sau của tủ, tôi lại trách: ‘‘ Sao thày dùng gỗ tạp, gỗ bìa để dựng tủ, chả mấy bữa nó mọt ruỗng thì biết làm sao’’. Khi ấy thày ngồi thừ ra nhưng tệ nhất, tôi lại vào gian trong nói xẳng với vợ: Mai đưa tủ này về quê cho em gái, hiện nó chưa có tủ nên có thể dùng tạm cái này vài năm.

Sự xung đột giữa hai thế hệ xảy ra ở cách nhìn nhận sự việc. Tôi muốn thày không quá tốn công, đã phải bỏ sức ra thì nên bảo con nó mua gỗ tốt, tủ được làm ra sẽ bền, đẹp, lại dễ làm. Thày tôi không nghĩ thế, người thợ có thói quen làm đẹp cho nhà người ta, nhà mình sao cũng được, thu vén bòn nhặt đã ngấm vào máu của ông rồi.

Chỉ vậy mà thày giận. Có lẽ ông cho rằng thằng con trai vừa có nhà mặt phố đã thích sự sang trọng nên không biết quí công sức của ông. Đầu giờ chiều, chuẩn bị lên lớp, tôi sang phòng ngầm ý xin lỗi thày thì thấy ông đang lau mắt bằng chiếc khăn mặt màu cháo lòng đã cũ vàng. Thấy tôi, ông quay mặt đi im lặng. Tôi cứ thế đi làm. Cuối buổi, tôi vội về nhà thì con tôi mách, ông đã lên nhà bác gái. Biết giờ mình có lên nhà chị ngay cũng không làm thày hết giận. Sáng hôm sau chuẩn bị lên lớp, tôi định nhờ mấy bác thợ trợ giúp việc coi nhà, thì đã thấy thày và chị đứng ngay cạnh bậc cửa. Ông vào nhà vớ cái điếu, tay vân vi tí thuốc lào. Chị gọi tôi xuống bếp, dặn: Thày vậy mà hay tủi thân, đừng nhắc lại chuyện hôm qua nữa. Sáng nay, thày dậy sớm, giục xuống trông coi nhà cho vợ chồng kịp giờ lên lớp.

Tôi nhận ra trên tay thày có chiếc khăn mặt, bông vải còn trắng tinh – có lẽ chị tôi vừa mới mua – Nó khá giống cái khăn con dâu mua cho tôi lúc chiều qua, điểm khác là không có chữ Hàn Quốc. Nhưng thày tôi lại gấp nó và cho vào bao dưới của áo. Trên vai ông vẫn vắt chiếc khăn cũ màu cháo lòng đã ố vàng…

*

Bỗng có tiếng leng keng báo gom rác thải từ các hộ dân phố.

Mửng sáng rồi còn gì. Tôi bồi hồi đứng dậy, tay nâng níu chiếc khăn mặt thày tôi dùng khi người còn sống.

U mê. Lầm lạc. Sự này vốn không có tuổi. Chiếc khăn mặt của thày tôi hình như mỗi ngày thêm bợt bạt, nó như vẫn còn được dùng để thấm những giọt lệ ứa ra từ khoé mắt, để lau những giọt mồ hôi luôn được túa ra từ cỗ máy đã cũ. Tất cả như còn nặng níu trên từng sợi vải; và, tất cả vẫn còn nhưng đắng ngắt!

LÊ VẠN QUỲNH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.