Vanvn- Chú đứng dậy đi. Mẹ con tôi không giận chú. Hai bác và mọi người cũng không giận chú đâu. Chuyện đã qua rồi. Sống ở đời ai không mắc sai lầm. Ngày xưa lúc thằng Kiên tố giác chú bớt xén hàng của Nhà nước cấp cho dân, tôi cũng giận nó lắm. Nhưng nó bảo mế đừng giận con, con làm thế cũng chỉ vì muốn tốt cho chú thôi mà.

>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 1
>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 2
>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 3
Học đến lớp mười hai Hoàng Mai mới biết rõ thân phận của mình. Thì ra gã không phải là con đẻ mà chỉ là con nuôi của vợ chồng ông họa sĩ già. Điều bí mật ấy chắc chắn chẳng bao giờ gã biết nếu bố nuôi gã không tự nói ra. Mai nhớ hôm đó là một buổi chiều cuối thu, trời se se lạnh. Đi chơi về Mai thấy bố đang ngồi trầm tư bên giá vẽ. Bức họa được ông chăm chút, chỉnh sửa suốt mấy tháng nay gìơ mới hoàn thành. Ông gác cọ, vẫy Mai lại nói:
– Con ngồi xuống đây. Ba có chuyện này muốn nói với con.
Mai linh cảm có chuyện gì đấy rất hệ trọng nên kéo ghế ngồi xuống bên bố, chăm chú lắng nghe. Họa sĩ già quàng tay qua vai Mai, nhỏ nhẹ:
– Mai à, ba mẹ đều đã già rồi. Từ ngày nhận sổ hưu đến giờ mắt ba mỗi ngày một kém. Bác sĩ cho biết có nhiều khả năng một, hai năm nữa ba sẽ không nhìn thấy gì. Nghề của ba có đôi mắt để phân biệt màu sắc, thiếu nó thì làm sao cầm được cọ. Không được vẽ coi như mình đã chết. Ba mẹ đã bàn nhau và hôm nay ba quyết định nói cho con biết chuyện này…
– Chuyện gì vậy ba? Mai ngước nhìn bố, hồi hộp hỏi.
– Chuyện của con! Ông nhấp một ngụm trà rồi nói liền một mạch – Ba mẹ không có con. Năm ấy vợ chồng ba đều đã ngoài bốn mươi tuổi. Trong một lần lên miền tây huyện Thọ đi thực tế sáng tác, ba nghe người ta nói trạm y tế thị trấn Hạ Sơn đang nuôi hai đứa trẻ song sinh là con trai bị mẹ bỏ rơi. Ba liền tìm đến đặt vấn đề xin một đứa làm con nuôi. Họ cho ba thằng anh là con. Ba rất tiếc là không thể cưu mang cả hai anh em con được vì ngày ấy cán bộ nhà nước sống rất chật vật. Anh em con lại đang trong thời kì phải bú mẹ. Ngày nào mẹ cũng phải bế con đi xin bú nhờ khắp cơ quan. Hàng tháng, ngoài phần sữa tiêu chuẩn tem phiếu ít ỏi ba mẹ còn phải mua cả sữa ngoài chợ đen để con có cái ăn thêm…
– Thế còn em con thì họ cho ai ba? Mai nôn nóng hỏi.
Họa sĩ già rút mù soa lau đôi mắt kèm nhèm, buồn buồn nói:
– Ba rất tiếc vì bận công tác nên sau đó đã không có dịp trở lại cái thị trấn vùng đồi ấy để hỏi xem người em sinh đôi với con đã được ai xin làm con nuôi nên bây giờ không thể nói gì thêm về chuyện này được. Em con rất giống con. Sau này nếu có điều kiện con nên lên trên ấy dò hỏi hoặc nhắn tin qua đài, báo may ra có liên lạc được với em con không. Đó là tất cả những gì ba muốn nói với con. Ba xin lối vì lẽ ra chuyện này ba mẹ phải cho con biết sớm hơn mới phải.
Câu chuyện về sự thật thân phận mình đã gây cho Hoàng Mai một cú sốc. Sức học của Mai sa sút hẳn. Mùa thi Đại học năm ấy và cả hai năm tiếp theo Mai không đủ điểm nên phải nộp đơn xin vào trường Trung cấp Văn hóa – Nghệ thuật tỉnh, học khoa hội họa. Mắt ông họa sĩ già mỗi ngày một kém. Không cầm nổi cọ, không có tranh bán, ba miệng ăn và mọi chi tiêu trong nhà đều trông chờ vào hai suất lương hưu nên rất khó khăn. Một tối Mai đang ngồi ủ rũ bên li cà phê trong một quán cóc thì gã Tuấn mập dựng xe máy, xộc thẳng đến bên bàn kéo ghế ngồi rồi vỗ vai Mai hỏi:
– Thằng em, làm gì mà ủ ê thế?
Mai ngẩng lên, nhìn gã, đáp cộc lốc:
– Không có tiền!
– Tiền! Tuấn mập ngạc nhiên kêu lên – Cậu mà cũng la thiếu tiền?
– Làm gì ra mà chẳng thiếu! Tháng này còn chưa có cả tiền đóng học phí nữa kia!
– Thế cái tài của cậu đâu, không đem ra mà kiếm tiền?
– Tài gì?
– Cậu thật biết đùa! Tài khắc dấu chứ còn tài gì! Tuấn mập ghé sát tai Mai nói nhỏ – Nếu thật sự cậu chưa có khách thì để anh giới thiệu cho! Rồi rất hào phóng, gã móc ví đưa cho Hoàng Mai cả tập hai mươi tờ năm ngàn – Anh đang vội, cầm tạm chỗ này mà tiêu.
Mai đã biến cái phòng làm việc bỏ không của bố nuôi thành cái xưởng khắc con dấu giả của mình. Công việc thật nhẹ nhàng. Thù lao không thật cao nhưng cũng đủ cho Mai có cái trang trải tiền học phí, may sắm quần áo và thỉnh thoảng rủ bạn đi uống bia. Chính vì việc đi quán uống bia mà một lần bọn Mai đã gây lộn, đánh nhau với một đám thanh niên ngoài phố, bị công an phường bắt tạm giam và thông báo về trường. Nhà trường đã quyết định đình chỉ việc học của Mai một tuần để ở nhà làm kiểm điểm. Bảy ngày ở nhà Mai được Tuấn mập giao cho làm một con dấu khá đặc biệt. Mai đã hoàn thành công việc được giao và nhận về một khoản thù lao rất khá.
Nhưng rồi điều gì phải đến cuối cùng cũng đã đến. Một tháng sau Mai nghe người ta bàn tán Tuấn mập đã bị công an thành phố bắt vì cầm đầu một băng nhóm tội phạm chuyên lừa đảo. Mai chột dạ, nhận ra sự nguy hiểm trong công việc mình làm lâu nay. Tuấn mập bị bắt chắc chắn hắn sẽ khai ra người làm con dấu giả. Vậy thì sớm muộn thế nào công an cũng sẽ đến bắt mình. Không còn đường nào khác, ngay sáng hôm sau Mai đã vội bỏ trốn khỏi thành phố…
Lên miền tây! Đó là sự lựa chọn của gã sau một đêm cân nhắc. Phương án vào Nam, ra Bắc gã thấy đều không mấy an toàn. Chẵng đã có nhiều cao thủ sau khi gây án đã vào thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam hoặc mò lên biên giới phía Bắc lánh nạn đều bị công an lần ra tung tích và xách cổ về đấy ư? Hoàng Mai chưa một lần đặt chân lên các huyện miền núi phía tây của tỉnh, nhưng qua màn ảnh nhỏ Mai cũng có thể hình dung vùng đất rộng lớn và giàu tài nguyên ấy có thể là nơi dung thân lí tưởng cho gã một thời gian dài mà công an không thể ngờ tới. Vấn đề cần giải quyết trước mắt là cái đầu. Kiểu tóc hiện thời của gã là kiểu tóc đã chụp trong bức ảnh lưu ở hồ sơ của nhà trường. Nếu công an cần chắc chắn họ sẽ đến liên hệ với Ban giám hiệu để lấy ảnh in vào lệnh truy nã.
Xe vừa dừng, Hoàng Mai đã vội tìm đến một cửa hiệu cắt tóc. Vừa trông thấy gã, chủ tiệm đã thốt lên:
– Ơ kìa! Cái đầu của cậu…
Hoàng Mai sờ lên đầu, ngạc nhiên hỏi lại:
– Đầu của tôi! Sao kia ạ?
– Không phải là tôi vừa cắt tóc cho cậu rồi đấy ư?
Hoàng Mai nghĩ bụng có lẽ lão này bị thần kinh chắc.
– Bác nhìn kĩ lại xem tôi là ai đã chứ!
Chủ tiệm lẩm bẩm:
– Quái lạ! Sao lại có người giống nhau thế không biết. Rõ ràng tôi vừa cắt cho một người giống hệt cậu. Chỉ khác là tóc cậu ta rậm hơn thôi. Cậu ấy còn hẹn lát nữa sẽ quay lại. Thế này nhé. Tôi sẽ cắt cho cậu kiểu tóc giống hệt kiểu đã cắt cho cậu ấy. Rồi lát nữa cậu xem hai người có giống nhau như hai giọt nước không.
Hoàng Mai thấy hay hay nên tìm chỗ treo ba lô rồi lại ghế ngồi. Ngắm mình trong gương, gã chợt nghĩ đến đứa em song sinh và khấp khởi mừng khi biết đây chính là địa phương hơn hai mươi năm trước bố nuôi gã đã đến xin gã về làm con nuôi. Biết đâu đây chẳng phải là dịp trời dun dủi cho hai anh em gã được gặp nhau.
Chủ tiệm đưa xong nhát cạo cuối cùng, cởi khăn quàng cho gã thì vừa lúc có một thanh niên trạc tuổi gã lăm xăm đi vào. Ông ta liền chạy lại nắm cổ tay người đó dẫn đến cạnh Hoàng Mai nói:
– Các cậu nhìn vào gương xem. Hai người có giống nhau như hai giọt nước không?
Cả Hoàng Mai và chàng trai trẻ cùng ngớ ra. Trong gương hai khuôn mặt của họ giống nhau như lột. Không để cho Hoàng Mai và chàng trai bộc lộ cảm xúc, chủ tiệm lại đã lên tiếng:
– Hay là các cậu cố tình đùa tôi. Anh em sinh đôi hả?
Không hiểu sao Hoàng Mai lại buột miệng trả lời:
– Vâng!
– Có vậy chứ! Làm từ lúc cậu vào đến giờ tôi cứ nghĩ sao ở đời lại có người giống nhau đến thế không biết. Thôi thế này. Tiền bạc kể ra cũng quí thật. Nhưng hôm nay tôi xin tặng hai cậu tất cả tiền công, gọi là chút kỉ niệm. Thế anh em đi đâu mà khăn gói qủa mướp lỉnh kỉnh thế?
Hoàng Mai chưa kịp nghĩ ra câu trả lời thì chàng trai đã lên tiếng:
– Bọn cháu vừa từ Tây Nguyên ra. Đang đợi đò để về quê.
– Các cậu về đâu?
– Dạ, về Chiềng Vạn ạ!
– Thế à? Sắp có chuyến lên Cửa Đặt rồi đấy, anh em tranh thủ xuống đò đi kẻo lỡ. Chúc về quê may mắn nhé. Khi nào thư thả ghé chỗ anh chơi.
Hoàng Mai và chàng trai chào tạm biệt ông chủ hiệu cắt tóc vui tính và tốt bụng rồi xách ba lô dắt nhau xuống đò. Con đò làm bằng bê tông lưới thép lắp động cơ Điêzen vừa dài vừa rộng lúc này vẫn chưa có một bóng người. Hoàng Mai và chàng trai chui vào trong mui, tìm chỗ đặt ba lô rồi mới quay ra nói chuyện.
– Cậu tên là gì? Mai hỏi.
– Tôi là Lò Văn Sao. Còn anh?
– Mình là Thắng. Lê Văn Thắng, quê ở Quảng Xương. Mai chưa dám để lộ tung tích của mình – Sao quê ở đâu? Họ Lò…nghe như là người dân tộc thiểu số.
– Đúng vậy! Tôi người Thái, quê ở bản Tôm.
– Năm nay Sao bao nhiêu tuổi rồi? Tuổi mình là hai mươi bốn.
– Thế thì tôi cũng bằng tuổi anh.
– Bố mẹ cậu còn khỏe không?
– Bố mế tôi đều đã ngoài bảy mươi cả rồi.
– Gìa thế! Vậy phải hơn năm mươi các cụ mới sinh cậu à? Cậu là thứ mấy?
– Tôi chỉ có một mình. Tôi là con nuôi của bố mế tôi.
Hoàng Mai hồi hộp hỏi tiếp:
– Thế, Sao có nhớ hoàn cảnh của mình lúc về ở với bố mẹ nuôi không?
– Làm sao mà biết được! Bố mế tôi xin tôi từ một người chuyên đi các bản đổi hàng từ lúc tôi còn đỏ hỏn. Nghe nói tôi còn một người anh song sinh nữa nhưng đã có người xin đem đi trước đó rồi. Nơi mẹ tôi sinh ra rồi bỏ anh em tôi lại hình như là ở phố Hạ này…
Hoàng Mai không kìm được nỗi vui mừng, hét lên:
– Là anh đây! Trời ơi, thế là anh đã tìm được em rồi!
Hoàng Mai và Sao nhào lại ôm chầm lấy nhau. Cả hai đều nước mắt đầm đìa. Lúc sau Mai hỏi:
– Em xuống chợ có việc gì?
Sao đáp:
– Em vừa từ Tây Nguyên ra đấy chứ. Em vào trong ấy làm kinh tế được năm năm rồi. Còn anh đi đâu lại đến vùng này? Anh lên Cửa Đặt chơi hay còn đi đâu nữa?
Lúc này Hoàng Mai mới nói thật hoàn cảnh bi đát của mình. Nghe xong, Sao bảo:
– Không ngại! Anh cứ tạm về trên ấy với em. Nếu không ổn em sẽ thu xếp đưa anh vào Tây Nguyên. Ở trong đó em có rất nhiều bạn bè! Rồi Sao cởi cái áo Na To mình đang mặc đưa cho Mai nói – Anh mặc áo em rồi đưa áo anh cho em mặc. Ôi, giá lúc này mà đang ở nhà khéo em phải ôm anh mà ngủ một giấc mất!
Hoàng Mai hiểu tấm lòng của đứa em song sinh. Gã cũng vội cởi cái áo bò của mình đưa cho Sao mặc. Song, hai anh em lại nhìn nhau cười. Sao nói:
– Giấy tờ tùy thân em để cả trong túi. Gỉa thử công an có hỏi anh cứ đưa ra trình xem họ có nhận được không! Túi trên là tất cả số tiền em kiếm được ở Tây Nguyên. Chỗ ấy cũng thừa cho anh em mình sống đàng hoàng vài năm.
– Giấy tờ tùy thân của anh cũng ở trong túi áo. Tiền anh mang theo chỉ đủ tiêu trong một hai tháng thôi. Mai đưa tay nắn nắn cái túi bên ngực trái, hỏi – Túi này em đựng cái gì? Ảnh à!
Sao đỏ mặt, cười:
– Vâng! Túi ấy đựng ảnh và một tập thư. Của Lả, người yêu em đấy! Lả học Sư phạm, vừa ra trường về quê dạy học năm nay.
– Thế à? Chúc mừng em. Anh xem ảnh một lúc có được không?
– Anh cứ lấy mà xem. Em dâu tương lai của anh không đẹp nhưng mà rất hiền. Xem qua rồi cất đi kẻo khách xuống đông rồi. Chiều nay là anh sẽ gặp người ngay thôi mà. Qua được vụ rắc rối này, nếu anh thích con gái Thái em sẽ bảo Lả giới thiệu cho một đám.
Chủ phương tiện và khách đã lục tục xuống thuyền. Con thuyền xếp đầy xi măng, sắt thép còn nêm thêm hơn chục người và gồng gánh nên mớm nước đã ngập mấp mé mạn. Chủ phương tiện thu tiền rồi nổ máy. Cái chân vịt lắp ở đầu cây sào dài làm bằng cả ống kẽm quay tít, đẩy con thuyền nặng nề ngược dòng tiến lên.
Con thuyền lướt êm trên dòng sông phẳng lặng, nước trong nhiều nơi nhìn thấy đáy. Nhưng chỉ ba mươi phút sau thuyền bắt đầu tiến vào vùng nước có dòng chảy khá mạnh. Sóng vỗ ì oạp hai bên mạn nhiều lúc muốn tràn cả vào khoang. Sao nói:
– Đây là chỗ sông Đằn đổ ra sông Chu nên nước mới nhiều và chảy mạnh như thế. Từ đây trở lên còn phải qua hai cái sải và một cái thác rất khó đi là Thác Mạ.
Hoàng Mai bắt đầu có cảm giác lo sợ:
– Thế…có nguy hiểm lắm không? Anh chưa biết bơi!
– Anh yên tâm. Xảy chuyện gì đã có em!
Hoàng Mai đảo mắt nhìn quanh. Trên thuyền không có lấy một cái phao hoặc một khúc luồng nào. Gã hỏi chủ phương tiện:
– Thuyền chở nặng thế này mà không chuẩn bị cái phao nào à ông anh?
Chủ thuyền trả lời rất chủ quan:
– Cần gì phao! Ông mới đi thuyền tôi lần đầu phải không?
Hoàng Mai chất vấn:
– Đó là việc bắt buộc các chủ phương tiện phải làm để đảm bảo an toàn cho khách. Thế lúc thi lấy bằng người ta không sát hạch ông điều này à?
Chủ thuyền cười hềnh hệch:
– Bằng cấp mà làm cái qué gì! Chỉ cần hàng tháng đóng đủ tiền bến bãi cho mấy ông trên Uỷ ban là được!
Hoàng Mai lắc đầu:
– Thế thì chịu!
Sao nhắc:
– Ngồi ngay ngắn lại đi anh. Đến sải Hổ rồi.
Đang vượt sải, con thuyền bỗng khựng lại rồi quay ngang. Chủ phương tiên vội tắt máy, miệng càu nhàu:
– Lại gãy mẹ nó chân vịt rồi. Mọi người ngồi yên nhé!
Anh em gã mỗi người một cây sào chống con thuyền táp vào bờ để thay chân vịt rồi nổ máy. Con thuyền lại lừng lững tiến ra giữa dòng, hùng hục trườn qua cái sải nước chảy xiết.
Vật vã gần hai mươi phút nữa thuyền đã đến hạ lưu một con thác đầy những mỏm đã nhọn hoắt nhấp nhô như một bãi cọc giữa dòng. Tiếng nước réo ầm ầm, tạo thành một âm thanh sắc lạnh rất lạ tai khiến những người mới nghe lần đầu như Mai không khỏi hoang mang, lo sợ. Còn Sao lại tỏ ra rất thích thú:
– Thác Mạ đấy! Anh thấy có đẹp không?
Hoàng Mai lo lắng:
– Nhưng nước chảy mạnh và nhiều đá ngầm thế này làm sao thuyền qua đươc?
Chủ phương tiện tự đắc nói:
– Yên tâm đi. Không vấn đề gì!
Vừa nói gã vừa điều khiển bánh lái, hướng mũi thuyền đi vào giữa lạch nước chảy xiết, hai bên đầy những mỏm đá nhọn…
Bỗng…phập…phập! Mạn thuyền va mạnh vào một mỏm đá nhọn vỡ toang một lỗ lớn. Nước ồng ộc chảy vào khoang. Mặt chủ thuyền biến sắc. Con thuyền khựng lại trong giây lát rồi nhanh chóng bị dòng nước chảy xiết đẩy lùi xuống hạ lưu. Mạn thuyền liên tiếp va vào các mỏm đá. Mỗi một cú va chạm lại thêm một mảng vỡ bung ra. Chỉ ít phút sau con thuyền nặng nề đã bị dòng nước nhấn chìm. Tiếng la hét, tiếng kêu cứu vang trời. Một cảnh hỗn loạn xảy ra trên dòng thác hung dữ…
Hoàng Mai còn chưa biết bấu víu vào đâu thì lập tức đã được Sao túm cổ áo đẩy vào bờ. Sao ném cái ba lô lại cho gã, nói:
– Anh lên bờ ngồi đi. Để em xuống cứu họ.
Nói rồi Sao nhào vội ra giữa dòng nước lạnh buốt, bơi đuổi theo mấy bà đi đổi làng đang chới với gĩa gạo. Hoàng Mai lo lắng nhìn theo. Sao đã đuổi kịp đám người bị nạn. Ba, bốn cái đầu rũ rượi tóc cùng lúc chồm đến bâu lấy Sao làm nó không tài nào ngóc đầu lên được. Rồi chỉ một lúc sau tất cả đều bị nhấn chìm trong dòng nước xiết…Hoàng Mai bưng mặt, đau đớn kêu lên:
– Trời! Sao ơi!
Cái ba lô sũng nước là ba lô quần áo của Sao. Hoàng Mai ngồi như hóa đá trên bờ. Không biết anh em gã chủ thuyền có bơi được vào bờ không chứ còn Sao và bốn người đàn bà bất hạnh thì chắc chắn đều đã chết. Nỗi đau vì mất thằng em vừa tìm lại được cộng với nỗi lo cho bước đường phía trước làm Hoàng Mai thật sự hoang mang. Cũng may tất cả giấy tờ và tiền bạc đều không bị ướt vì Sao đã cẩn thận gói vào mấy cái túi giấy bóng. Cầm trên tay cái chứng minh nhân dân của thằng em xấu số trong đầu Hoàng Mai vụt lóe lên một ý nghĩ táo bạo…Và thế là gã quyết định đội lốt em mình để tìm về bản Tôm…
Mọi chuyện diễn ra sau đó đều rât suôn sẻ. Gã nhập vai khá đến mức chẳng một ai mảy may nghi ngờ, kể cả Lả. Niềm vui khi gặp lại người yêu sau mấy năm xa cách và nhất là lúc nghe Mai kể lại vụ đắm đò khủng khiếp dưới Thác Mạ làm cô giáo trẻ hết khóc lại cười vì mừng. Cô thật sự xúc động khi thấy người yêu vẫn trân trọng, giữ gìn từng lá thư và những tấm ảnh của mình. Tự cô đã giúp Mai mang chứng minh nhân dân lên trình lãnh đạo Uỷ ban xã. Mai lấy lí do đi đường xa, lại vừa trải qua một vụ tai nạn kinh hoàng nên nằm ọp ở nhà cả tháng chẳng đi đến đâu. Mọi việc mua bán những thứ cần thiết Mai đều đưa tiền nhờ Lả giúp. Ông bà Páo thì luôn miệng động viên:
– Con cứ nằm mà nghỉ cho lại sức. Khỏe rồi lo cưới vợ cho bố mế mau được bế cháu!
Sau một tuần học chuyên đề ở huyện về, Lả nói cho Mai một thông tin quan trọng: Cả năm người bị tử nạn trong vụ đắm đò tháng trước ở Thác Mạ ba ngày sau đều đã vớt được xác. Người đàn ông duy nhất trong số đó lại chính là một gã tội phạm đang bị công an truy nã. Khi mai táng người ta còn giữ lại cái áo bò trong có ít tiền và giấy tờ tùy thân. Bố mẹ gã từ thành phố đã lên nhận lại và xác nhận đấy chính là con trai mình.
Mai nghe vừa mừng vừa xót thương thằng em xấu số.
Chờ thêm một tháng để nghe ngóng, thấy không có gì rắc rối nữa Hoàng Mai mới thực sự yên tâm. Ở rừng, cuộc sống thật không mấy dễ chịu. Nhưng biết con đường trở về thành phố để sau này có cơ hội thừa hưởng ngôi nhà của bố mẹ nuôi đều khó có thể thực hiện được nên Hoàng Mai quyết định trụ lại lâu dài ở vùng đất mới trong cái lốt của người em song sinh xấu số. Gã cầm tiền về phố huyện mua lại một chiếc Min để hành nghề xe ôm và chở gỗ thuê. Một lần ở chợ Khèn gã gặp mấy gã lái trâu nài nỉ nhờ tìm cách “mua” giúp một cái giấy xác nhận bán trâu có con dấu và chữ kí của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Gã nhận lời, cầm tiền rồi về mượn một cái giấy bán trâu của một người hàng xóm, dựa theo đó làm một con dấu giả, viết xác nhận, kí tên Chủ tịch rồi đóng dấu đưa cho bọn chúng. Từ đó mở ra một hướng làm ăn vừa nhàn vừa có thu nhập cao, Nhưng lòng tham không dừng ở đấy. Với quyết tâm trong một thời gian ngắn phải kiếm đủ số tiền để về phố huyện mua đất làm nhà và chạy chọt xin cho Lả được về dạy ở thị trấn, Hoàng Mai tìm cách móc nối với Hà Văn Tạo, chồng người đàn bà bất hạnh đang bị bỏ rơi trong rừng hủi tổ chức bắt trộm trâu đưa vào giữ tạm trong đó rồi làm giấy tờ giả đem ra chợ Khèn bán cho bọn thương lái. Một lần về phố huyện, gặp thi sĩ Trần Cao Sơn đang ngồi trong quán vừa uống bia vừa huyênh hoang đọc thơ. Hoàng Mai dựng xe ghé vào nghe. Biết Trần Cao Sơn đang bí vì thi phẩm “Tình rừng” in bằng tiền túi chưa bán được mấy, Mai đã đưa Cao Sơn về nhà, bàn với gã kế hoạch chiếm đoạt cái trống đồng gia đình ông trưởng bản Tùm vừa đào được trong lúc đào ao để đem về thành phố bán cho bọn buôn cổ vật. Trần Cao Sơn đồng ý và còn hé cho Mai biết nghề cũ của mình là lái xe, việc vận chuyển sẽ rất an toàn vì chỉ cần thuê phương tiện còn tự y lái lấy. Hoàng Mai đã bỏ ra một ngày để làm con dấu giả của Bảo tàng tỉnh rồi bố trí cho Trần Cao Sơn sắm vai cán bộ cơ quan này đến bản Tùm, gặp trưởng bản đề nghị cho thu hồi cái trống đồng để đem về thành phố trưng bày trong Bảo tàng tỉnh rồi đem cất giấu trong cái hang ở bản Ngồng, chờ khi nào tìm được mối tiêu thụ sẽ đem về thành phố bán. Sau đó theo đề nghị của Trần Cao Sơn, Mai còn khắc thêm một con dấu của Uỷ ban nhân dân tỉnh để tác giả thi phẩm “Tình rừng” sắm vai cán bộ văn phòng Uỷ ban đến gặp già Quế gạ gẫm mua bộ xương hổ nghe nói được cất giữ đã mấy chục năm nay, nhưng ông già đó vẫn chưa nhận lời. Trần Cao Sơn quả là một con cáo, tinh khôn và lọc lõi. Gã nói chỉ cần mua được bộ xương hổ quí giá ấy, đem về trương lên cho bàn dân thiên hạ biết rồi gom xương trâu, xương bò bỏ nồi nấu, sau đó ngồi rung đùi thái ra từng lạng mà bán theo giá cao hổ cốt. Tiền thu về sẽ nhiều như lá mít.
Công việc làm ăn đang tiến triển thuận lợi thì cái thằng nhãi ranh ấy lù lù xuất hiện. Thật là xui xẻo. Mình đã bị lộ chưa? Liệu nó có phát hiện ra tung tích của mình? Hoàng Mai suy xét rồi đi đến quyết định: Không được hoang mang. Phải thật tĩnh táo. Bọn chúng chưa thể biết mình là ai đâu! Dù có phải bỏ trốn khỏi đất này thì trước hết cũng phải thực hiện trót lọt vụ vận chuyển cái trống đồng quí giá còn cất giữ trong Hang Dơi về thành phố đã. Một đống tiền chứ có ít đâu!
9
Lão Đốc và chiếc Phượng Hoàng vừa đến ngã ba Ngồng thì gặp già Núi vai quẩy tùng teng đôi sọt trong đựng mấy cây quế non cũng đang lúi húi đi lên. Lão xuống xe, hỏi:
– Bác lên trại rừng sớm thế?
Gìa Núi dừng lại, nói:
– Còn sót mấy cây quế bị chết, tôi lên dặm nốt! Anh đi đâu vậy?
– Cháu ra Bù Đồn mua mấy thứ. Thế thằng nhỏ nhà Lâm đâu bác không bảo nó gánh lên cho?
– Thiếu không đến chục cây, tôi làm một mình cũng được. Sáng nay hai anh em nó đưa nhau lên Bù Cheo chơi rồi!
Lão Đốc chột dạ. Hai thằng nhóc này lên Bù Cheo làm gì không biết? Chiều hôm kia lúc lão vừa từ trên núi về, gặp ba ông cháu ở Ngù, thằng Tú đã chạy theo hẹn hôm nào sang chơi để được nghe lão kể lại chuyện bắt phi công không thành trên Bù Cheo và việc Cầm Bá Kiên theo giặc. Cái chuyện cũ rích ấy đã hơn hai chục năm không thấy ai nhắc lại, nay bỗng dưng thằng nhóc là con trai một Đại úy công an đột nhiên hỏi đến làm lão không khỏi nghi ngại. Chỉ là sự tình cờ hay tay Lâm đã đánh hơi thấy điều gì khuất tất trong chuyện này nên cho con trai đến dò hỏi? Không lẽ hôm nay hai thằng nhóc ấy lại dắt nhau lên trên ấy để xác minh thật giả trong lời tường trình của mình? Lão nôn nóng hỏi:
– Chúng nó lên Bù Cheo làm gì vậy bác?
– À, là thằng anh nó ở thành phố mới lên, muốn biết thác Trai Gái nên nó dẫn lên xem. Chúng nó định đi từ mấy hôm trước nhưng vì trời có mưa nên hôm nay tôi mới cho đi.
– Thế ạ! Lão Đốc cười nhẹ nhõm – Hôm tôi sang bản Pang, đường lên thác đã khô ráo lắm rồi. Thôi, bác tranh thủ lên trại đi kẻo muộn.
– Vậy anh đi nhé! Gìa Núi chào lão rồi quẩy đôi sọt rẽ vào con đường dẫn lên trại rừng.
Lên xe, đi tiếp mới được một quãng lão Đốc bỗng thấy lòng bất an. Lão không thật sự yên tâm một chút nào. Hôm kia lên Bù Cheo, thắp hương cho người chết xong, thấy trời nổi giông, tưởng mưa đến nơi lão đã vội vã xuống núi mà không đợi cho hương nến tàn rồi xóa sạch dấu vết như mọi năm mới ra về. Lão chắc chắn khi trận mưa rừng trút xuống, nước từ trên vách đá ào qua sẽ xóa hết mọi dấu vết cái lễ nhỏ của mình. Nhưng khi lão về đến làng Bèn cơn giông cũng tan biến và suốt từ lúc ấy đến giờ cả vùng không hề có một giọt mưa. Cái tảng đá bằng bên bờ vực nơi hơn hai chục năm trước Cầm Bá Kiên đã dùng làm cao điểm bắn vào thằng phi công và chiếc trực thăng để rồi sau đó bị nó nghiêng cánh quạt thổi bay xuống vực, nơi năm nào lão cũng lên làm lễ tưởng nhớ người đã chết ở trên đỉnh núi cao ấy lâu nay chỉ có mình lão biết. Nó là nơi lưu giữ tất cả sự thật câu chuyện hoang đường và dối trá trong lời tường trình của lão về Cầm Bá Kiên với lãnh đạo địa phương. Những bí mật ấy nếu lộ ra thì mọi chuyện sẽ vỡ lỡ, sự thật sẽ bị bóc trần và đời lão coi như là hết, dù rằng những tình tiết bịa đặt lão dựng lên chỉ là do sự nông nổi nhất thời. Nó đã làm lão khổ tâm và ân hận suốt hơn hai chục năm qua vì không ngờ hệ quả nó gây cho người khác lại nghiêm trọng đến như vậy. Chắc chắn một hai ngày nữa, nếu có mưa mọi dấu vết lão để lại do cẩu thả rồi cũng bị xóa sạch. Nhưng tuổi trẻ hiếu động, biết đâu xem xong thác Trai Gái hai thằng nhóc ấy lại không rủ nhau mò mẩm lên đỉnh núi để xem lại hiện trường nơi xảy ra câu chuyện bắt phi công nhảy dù từ hơn hai chục năm trước mà phần khuất tất của câu chuyện li kì ấy đều hoàn toàn không đúng sự thật, đều do chính lão bịa ra để che đậy hành vi hèn nhát của mình. Tuổi trẻ thì đứa nào chẳng có tính tò mò! Nhưng đáng lo hơn là nếu những điều chúng muốn tìm hiểu lại xuất phát từ yêu cầu của người lớn thì đúng là chuyện không đùa một chút nào. Sự thật nếu bị bại lộ thì việc lão sẽ phải vào tù, bị người đời xỉ vả là cái chắc! Lòng đầy bất an, lão quay xe phóng một mạch về nhà, với vội con dao nắp rồi hối hả đi nhanh về phía Bù Cheo…
***
– Chúng nó lam cơm ăn rồi đưa nhau lên trên ấy thật rồi! Lão Đốc khẩy khẩy mấy hạt gạo nếp vương vãi bên đống than hồng còn cháy hừng hực nghĩ bụng. Mình đoán không sai. Hai thằng nhãi này chắc chắn muốn tìm kiếm điều gì trên đỉnh núi đây. Lão ngồi phịch xuống phiến đá bằng, nhìn giọt nước đổ bên thác, cố tìm cho mình một phương án khả thi để đối phó nếu hai thằng tình cờ mò đến đúng nơi lão làm lễ ở cái tảng đá bên bờ vực trên đỉnh núi cao ấy. Giết người diệt khẩu! Ý nghĩ ấy chỉ mới vụt lóe lên trong đầu lão đã vội xua đi ngay. Lão đâu có gan và cũng đâu phải loại người tàn bạo như vậy. Vả lại nếu như lão cố tình thực hiện việc làm man rợ ấy thì sớm muộn người ta cũng tìm ra thủ phạm vì việc lão và hai đứa trẻ kia lên Bù Cheo buổi sáng hôm nay chắc hẳn không ít người biết. Mà tội trạng của mình suy cho cùng thật ra cũng có nặng lắm đâu. Chỉ là sự suy nghĩ không chín chắn nhất thời khi lão gán thêm cho đồng đội của mình cái tội lên máy bay bỏ chạy theo giặc. Mà người đã chết rồi thì điều đó có gì là quan trọng. Chỉ tội cho người mẹ già của Kiên phải gánh chịu tiếng xấu suốt đời. Nhưng mà bao năm nay mình chẵng đã âm thầm giúp đỡ bà ấy biết bao nhiêu là tiền của đấy ư? Chậc! Lão tặc lưỡi. Nếu bị bại lộ mình tự ra đầu thú, khai báo thành thật sự việc xảy ra hôm ấy rồi mặc cho người ta định đoạt tội lỗi của mình. Cùng lắm là ngồi nhà đá vài năm chứ chẳng tòa nào khép mình vào tội chết đâu! Gìơ phải theo lên xem hai thằng ông mãnh này làm gì trên ấy đã.
Lão đứng dậy, rút dao chặt một khúc giang làm gậy chống rồi uể oải đặt từng bước nặng nề lần theo con đường dốc đi lên đỉnh núi. Chưa bao giờ lão thấy mệt mỏi và chán ngán như lúc này. Tất cả chỉ tại mình quá hèn! Lão vừa leo dốc vừa tự rủa mình. Câu chuyện bắt phi công Mỹ nhảy dù xuống Bù Cheo từ hơn hai chục năm trước lần lượt trở về trong kí ức lão…
Hôm ấy cũng là một ngày đẹp trời. Hơi núi tan rất nhanh. Từ mờ sáng tất cả dân quân trong xã đã có lệnh tập trung để về huyện dự hội thao. Chỉ còn để lại hai người làm nhiệm vụ tuần tra thôn bản là lão và Cầm Bá Kiên. Cầm Bá Kiên là con trai độc nhất của bà Hà Thị Mến. Bà Mến có chồng đi bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, hi sinh ở chiến trường Lào lúc con trai chưa đầy một tuổi. Hai mẹ con sống dựa vào sự giúp đỡ của gia đình người em chồng và bà con dân bản. Kiên học rất giỏi. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên chỉ học hết cấp hai đã phải ở nhà lao động giúp đỡ mẹ già. Kiên tham gia dân quân và được biên chế vào trung đội mạnh của xã do lão làm trung đội phó. Kiên nổi tiếng can đảm và ngay thẳng, đã tự mình mò mẫm, điều tra thu thập chứng cứ và tố giác Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán Cầm Bá Chấp lợi dụng chức quyền bớt xén một lượng lớn hàng nhu yếu phẩm Nhà nước cấp bù giá cho đồng bào các dân tộc để bán cho bọn tư thương ngay sau khi nhận hàng từ kho Công ty Thương nghiệp và hợp tác xã mua bán huyện. Điều đáng nói ở đây là Chủ nhiệm Cầm Ba Chấp lại chính là chú ruột và là người đã tận tâm giúp đỡ mẹ con Kiên trong cuộc sống. Vụ việc bị phanh phui, tưởng Cầm Bá Chấp sẽ mất chức và bị khai trừ Đảng. Nhưng không hiểu sao khóa bầu cử Hội đồng nhân dân xã năm ấy ông ta vẫn trúng và con được cất nhấc lên làm Chủ tịch Uỷ ban. Bước đường phấn đấu của Kiên từ đó rất trì trật. Chỉ mỗi việc đơn giản là kết nạp Đoàn cũng phải nâng lên đặt xuống mãi. Trong mắt Chủ tịch xã, thằng cháu ruột như một chùm gai bồ kết. Dĩ nhiên từ sau vụ tố giác tham nhũng ấy, mẹ con Kiên không còn được nhận sự giúp đỡ nào của gia đình người chú giàu có và quyền thế nữa.
Gần bảy giờ, lúc lão và Kiên đang làm nhiệm vụ tuần tra ở bản Cả Xoi dưới chân Bù Cheo thì nghe tiếng ầm ầm của động cơ máy bay phản lực. Nhìn lên đã thấy một tốp năm chiéc F 105 D từ bên kia Bù Cheo dàn hàng ngang lao vút qua, Chúng bay theo hướng từ Nam ra Bắc. Theo kinh nghiệm lão biết lũ giặc nhà trời kia xuất kích từ một sân bay quân sự ở Thái Lan và mục tiêu của chúng chắc chắn là cái đập nước hoặc những cây cầu và hai bến phà quanh khu vực thị trấn Hạ Sơn hoặc là sân bay quân sự Sao Vàng mà khoảng cách tính theo đường chim bay từ đây về đó không xa lắm. Phán đoán của lão thật chính xác. Cuộc không kích đã được những chiếc phản lực có biệt danh “Thấn sấm” thực hiện và cũng như mọi lần, chắc chắn cả bọn đã bị lưới lửa phòng không giáng trả quyết liệt nên kết thúc rất chóng vánh. Chỉ mười lăm phút sau đám giặc trời đã lần lượt trở về căn cứ. Khác là chúng không bay theo đội hình như lúc đi mà mạnh thằng nào thằng ấy chạy. Bốn cái đầu tiên lần lượt vút qua bầu trời trong thế hoảng loạn nhưng không có dấu hiệu gì của sự xứt mẻ. Duy cái thứ năm bay sau cùng, tốc độ khá chậm và hình như đã bị dính đạn của lưới lửa phòng không. Nó bay ở độ cao thấp hơn đồng bọn…Lại một lần nữa lão đã phán đoán đúng. Khi chiếc máy bay hiện rõ trong tầm nhìn của lão và Cầm Bá Kiên thì đuôi nó bỗng phụt ra một đám khói rồi từ đám khói ấy lóe lên một ngọn lửa. Trong nháy mắt ngọn lửa bùng to như một bó đuốc lớn chùm kín phần đuôi chiếc máy bay. ..
– Cháy rồi! Cả lão và Kiên cùng nhảy lên reo.
Máy bay cháy, chắc chắn phi công sẽ phải nhảy dù! Cơ hội lập công đây rồi! Lão thoáng nghĩ đến cái niềm vinh dự khi được đứng tuyên thệ dưới cờ Đảng trong nghi lễ kết nạp mà từ ngày đưa gia đình đi định cư đến nay lão chưa thực hiện được. Nhưng rồi, cũng lúc ấy những hình ảnh tang thương, thảm khốc của xóm làng khi bị máy bay Mỹ ném bom ở quê cũ vụt hiện lên trong kí ức lão…
– Nó nhảy dù xuống đỉnh Bù Cheo rồi! Cầm Bá Kiên hét to – Nhanh lên chú Đốc ơi!
Một phút do dự. Trong lão thoáng xuất hiện ý nghĩ nếu thằng giặc lái này bị bắt, chắc chắn bọn Mỹ sẽ cho lực lượng đến ném bom hủy diệt bản làng để trả thù…Ở nơi thâm sơn cùng cốc này lấy đâu ra hỏa lực để chống trả. Cái cơ ngơi vợ chồng lão tốn bao công sức mới tạo dựng được trên quê mới sẽ tan thành tro bụi. Không biết chừng chúng con liều lĩnh đổ quân tàn sát dân làng để trả thù cũng nên. Lão ậm ừ nói:
– Nhưng phải chờ lệnh của trên đã!
Cầm Bá Kiên quay ngoắt lại, dương mắt nhìn lão:
– Chú này! Còn ai ở đây để mà ra lệnh. Bây giờ chỉ có chú và tôi. Không chủ động lên bắt sống thằng giặc lái ấy còn chờ lệnh nào nữa!
– Nhưng…Bọn ta chỉ có một khẩu súng trường và hai viên đạn…
– Hai người để bắt sống một thằng giặc lái dù chỉ bằng tay không cũng quá đủ rồi! Cầm Bá Kiên hét lên – Đi thôi! Chắc chắn nó đáp dù xuống đám đất bằng gần đỉnh núi rồi!
– Nhưng mà…từ ngày lên đây tao đã có lần nào leo lên đỉnh núi. Nghe nói trên ấy vẫn còn nhiều gấu lắm… Lão run run nói.
– Phạ ơi! Người còn không sợ sợ gì mấy con gấu! Kiên trừng mắt hét to – Ông có đi không thì bảo? Vừa nói Kiên vừa xấn đến định giật cây súng trong tay lão. Lão vội lùi sang một bên, quát:
– Được! Mày đi trước dẫn đường đi!
Mất hơn một giờ leo đốc, tưởng đứt hơi hai người mới lên đến cánh rừng toàn sến, sớ, táu. Đúng như Cầm Bá Kiên dự đoán, thằng phi công đã chọn đám đất bằng gần đỉnh núi để đáp dù. Khi lão và Kiên tiếp cận được mục tiêu thì hình như hắn đã làm xong cái công việc mở điện đài liên lạc về căn cứ. Hắn ngồi bên cái vô tuyến trên một tảng đá, mắt cảnh giác hướng xuống lối mòn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn. Thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn lên bầu trời như chờ đợi…Cầm Bá Kiên giục:
– Thế nào chú? Mình ập lên bắt sống nó thôi chứ?
Lão vừa thở vừa gắt:
– Mày điên à? Có nhìn thấy cái gì trong tay nó không? Tầm bắn của khẩu súng ngắn ấy còn xa và căng gấp mấy lần loại súng trường cổ lỗ này đấy! Nó lại có lợi thế hơn mình là đang ở trên cao!
Cầm Bá Kiên vặc lại:
– Trên cao thì đã sao! Mình tiến thêm một đoạn nữa, chú bắn vào tay cầm súng của nó để cháu vọt lên đè nó ra trói lại…
– Mày nói nghe thật đơn giản quá! Mở to mắt nhìn xem. Nó như con trâu mộng. Sức mày hỏi nước mẹ gì. Còn tao thì lỏng khỏng thế này…
– Đồ hèn! Cầm Bá Kiên trừng mắt quát – Vậy ông định thế nào?
– Chờ…có thêm lực lượng! Không hiểu sao lúc ấy lão lại đưa ra một đề nghị vô lí đến vậy. Lúc phi công nhảy dù, dân quân các xã trong vùng hẳn còn đang tập trung ở địa điểm hội thao dưới huyện. Có vắt chân lên cổ chạy hai giờ nữa chưa chắc đã đến. May sao lúc ấy bầu trời bỗng xuất hiện hai chiếc máy bay cánh quạt. Chúng bay theo đội hình mỗi chiếc một nửa đường tròn quần đảo trên không, lấy tâm điểm là chỗ thằng phi công đáp dù và bán kính chỉ hơn một ki lô mét. Vòng bay nào cũng có một chiếc chúi đầu xả cả loạt 14 li 5 xuống những cánh rừng và nương rẫy. Lão được dịp nói – Mày thấy chưa? Đâu chỉ có mình nó ngồi đó chờ chết. Coi chừng, có khi trực thăng còn đổ quân xuống nữa kia!
Lão nói chưa dứt lời thì từ bên kia đỉnh núi lù lù xuất hiện một chiếc trực thăng thật. Chiếc trực thăng bay đến đúng chỗ thằng giặc lái đáp dù thì dừng lại. Lão hoang mang thật sự. Định quay đầu bỏ chạy xuống núi thì Cầm Bá Kiên chồm đến giằng lấy khẩu súng, miệng quát:
– Đồ hèn! Đưa súng đây!
Rồi như một con gấu ngựa, Kiên xách cây súng trường, khom mình lách từ gốc cây này sang gốc cây khác tiến về phía lèn đá gần chỗ thằng giặc lái ngồi.
Đám đất thằng phi công đáp dù tuy rộng nhưng có khá nhiều các mỏm đá nên chiếc trực thăng không hạ cánh được. Nó hạ thấp độ cao rồi mở cửa, thả thang dây xuống…
Lúc này Kiên đã lần đến được lèn đá. Chỗ Kiên đứng quả có lợi thế cao hơn chỗ thằng phi công ngồi rất nhiều. Kiên dương súng lên ngắm…
– Trời! Lão nhắm nghiền hai mắt, lẩm bẩm – Hắn điên thật rồi! Nếu thằng phi công mà bị bắn chết thì cả vùng này sẽ phải gánh họa lớn đây!
Lão không nghe tiếng súng nổ nhưng biết chính xác là viên đạn đã được bắn đi vì thấy Kiên đã hạ súng xuống để lên đạn rồi lại tiếp tục dương súng lên…Viên đạn thứ hai cũng như viên đạn đã bắn đi trước đó có lẽ không gây xây sát gì cho cả thằng phi công và chiếc trực thăng to lớn vì luồng gió từ cánh quạt máy bay thổi rất mạnh. Cùng lúc ấy có lẽ những thằng giặc đi làm nhiệm vụ cứu nạn đã phát hiện ra mục tiêu đang tấn công mình. Một thằng xách khẩu tiểu liên ra cửa hướng nòng súng về phía Kiên. Nhưng cũng lúc ấy có một bàn tay ngăn hắn lại. Rồi cả hai biến mất trong khoang máy bay. Liền sau đó chiếc trực thăng nghiêng mình, hướng cả hệ thống cánh quạt quạt tít mù như dội bão về phía lèn đá…Lão chỉ kịp nhìn thấy Kiên chới với rồi bị luồng gió mạnh như bão hất tung cả người và khẩu súng bay đi như một chiếc lá …
– Trời! Kiên ơi! Lão đau đớn thốt lên trong tiếng cây cối gẫy gập đổ rào rào xung quánh.
Làm xong cái công việc tàn bạo kia, chiếc trực thăng lấy lại thế cân bằng để cho đồng bọn leo lên rồi đóng cửa, nâng độ cao bay hút về phía Nam. Tiếp đó lần lượt hai chiếc máy bay cánh quạt cũng nối nhau biến mất.
Lão bàng hoàng ngồi dậy, nhìn quanh. Cả một vùng rừng xác xơ như vừa trải qua một trận bão khủng khiếp. Lão lập cập lần bước đi trong đám ngổn ngang cây cối để lên lèn đá nơi Kiên đã đứng. Ngay sát lèn đá là một cái vực sâu thăm thẳm. Tất cả không còn để lại tí dấu vết gì. Lão rùng mình, ngồi xuống, đưa hai tay bưng mặt, khóc rống lên.. Lão khóc mừng cho mình may mắn thoát chết nhiều hơn là vì thương Kiên. Nếu Kiên sống, thằng ranh ấy tất sẽ đổ hết tội lên đầu mình đã chần chừ không bắt phi công. Nhưng mà nó chết thảm quá. Cái vực quá sâu và hiểm trở. Chỉ đứng trên bờ nhìn xuống đã thấy hoa mắt chóng mặt rồi. Một khi đã sa chân rơi xuống thì khó mà tìm thấy xác, chứ nói gì bị cả một luồng gió mạnh hơn bão ấy quẵng đi. Lão ngồi dậy, thập thửng lần xuống núi. Những lời nhục mạ của Kiên làm lão không khỏi hổ thẹn. Cũng không thể nói thật sự việc và nguyên nhân cái chết của Kiên với lãnh đạo được. Lão suy đi nghĩ lại rồi quyết định bịa ra chuyện Kiên cầm súng lên trực thăng theo giặc. Chỉ có vậy người ta mới không qui trách nhiệm cho lão. Còn Kiên, dù sao hắn cũng chết rồi!
Mãi theo đuổi với những tình tiết của câu chuyện xảy ra từ hơn hai chục năm về trước, lão đã đặt chân lên đám đất bằng gần đỉnh núi từ lúc nào. Không thấy bóng dáng hai thằng nhỏ đâu. Lão khấp khởi mừng thầm. Hay là chúng nó vẫn còn quẩn quanh đâu đó bên thác Trai Gái? Bỗng lão giật mình khi nhìn thấy trước mặt, bên lối mòn bí mật dẫn lên lèn đá nơi lão vừa thắp hương cho Kiên chiều hôm kia có mấy mảnh vàu róc từ ống cơm lam vương vãi trên thảm cỏ. Lão hồi hộp cúi xuống nhặt lên và sợ hãi khi nhận ra mục tiêu mình theo dõi đúng là đã đi vào lối mòn ấy. Bất ngờ từ trên lèn đá bỗng vang lên tiếng người gọi thống thiết:
– Chú Kiên ơi!
– Trời! Đúng hai thằng ranh ấy! Vậy là đi đứt hết rồi! Lão ôm đầu, ngồi phịch xuống vệ cỏ, mồ hôi túa ra như tắm.
10
Đại úy Cầm Bá Lâm với tay ấn nút dừng của cái máy ghi âm, phấn khởi hỏi:
– Bằng cách nào các con buộc lão tường thuật chi tiết vụ việc xảy ra buổi sáng hôm ấy trước máy ghi âm đầy đủ thế này được?
Tú nói:
– Có lẽ lương tâm ông ấy dằn vặt vì biết việc làm của mình đã gây hậu quả nghiêm trọng nên rất hối hận bố ạ. Song vì sợ trách nhiệm nên nhiều năm qua ông ấy vẫn không dám nói ra sự thật mà chỉ âm thầm tìm cách giúp đỡ bà thím và năm nào đến ngày giỗ của chú Kiên ông ấy cũng lên Bù Cheo thắp hương cho chú như là một sự tạ lỗi với người đã khuất. Lúc đầu ông ấy vẫn khăng khăng phủ nhận sự việc. Chỉ đến khi bọn con đưa ra hai cái vỏ đạn, bằng chứng việc chú Kiên đã bắn hết viên đạn cuối cùng ông ấy mới chịu thú nhận sự thật. Bọn con tin những lời ông ấy nói trong cuốn băng này là đúng vì sau đó ông ấy ngồi ôm mặt khóc rất lâu. Việc anh Minh bí mật ghi âm ông ấy hoàn toàn không biết.
Đại úy Cầm Bá Lâm xúc động nói:
– Các con đã làm được một việc rất có ý nghĩa. Đây là cơ sở pháp lí để trên ghi nhận chiến công của liệt sĩ Cầm Bá Kiên và trả lại danh dự cho mẹ con chú.
– Còn việc Hoàng Mai thì thế nào chú? Tuấn Minh nôn nóng hỏi.
– Những việc liên quan đến Hoàng Mai Công an huyện đang tiến hành điều tra và bước đầu đã có kết quả rồi. Đại úy Lâm nói – Bây giờ thì chú có thể cho các con biết trước chuyện này. Ngay sau khi nhận được thư của thầy Cầm Bá Tâm và làm việc với lãnh đạo Bảo tàng tỉnh, xác định đây là một vụ giả mạo giấy tờ để lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật khá nghiêm trọng, Giám đốc Công an tỉnh đã chỉ thị cho lãnh đạo Công an huyện phải lập chuyên án để điều tra, làm rõ vụ việc, bắt đối tượng và thu hồi cổ vật. Để giữ bí mật, tạm thời các chú chưa trả lời người gửi thư tố cáo. Nhưng đúng là việc phá án tiến triển rất chậm vì chưa lần ra được tung tích gã mang danh cán bộ Bảo tàng và ông cán bộ văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh kia. Các chú chỉ mới thống nhất một nhận định là hai nhân vật nói trên chắc chắn chỉ là một. Sau hôm nhận được nguồn tin về Hoàng Mai do các con cung cấp, chú được Trưởng Công an huyện cử xuống Hạ Sơn gặp chủ phương tiện của cái đò bị đắm ở Thác Mạ năm ngoái để xác minh lại một số sự việc. Rủi thay hôm ấy anh này lại không có nhà. Trong lúc chờ đợi chú ghé vào tiệm cắt tóc tranh thủ cạo bộ râu. Ông chủ cửa hiệu là người rất cởi mở và vui chuyện. Biết chú đang đi xác minh lại một số điểm nghi vấn trong vụ đắm đò, ông đã kể cho chú nghe một tình tiết rất quan trọng liên quan đến vụ tai nạn. Đó là trên chuyến đò ngược Cửa Đặt hôm ấy có hai thanh niên là anh em sinh đôi. Họ giống nhau như hai giọt nước. Và hình như họ bị thất lạc nhau từ nhỏ, mãi lúc vào tiệm ông cắt tóc thì mới nhận ra nhau. Lúc hai người ở dưới thuyền, ông xuống sông xách nước thì tình cờ thấy họ cởi áo rét đổi cho nhau rồi ôm nhau nói cười thân thiết lắm. Khi con thuyền bị đắm ở Thác Mạ, một trong hai người bị chết đuối. Nghe nói sau đó có hai vợ chồng một ông họa sĩ già từ thành phố lên nhận mộ, đã được công an giao lại cái áo bò trong đó có đủ giấy tờ tùy thân của người xấu số và họ đã xác định đấy chính là con trai mình. Từ đó ông ấy cứ phân vân mãi. Lúc nói chuyện với ông cả hai đều bảo là quê trên Chiềng Vạn, giờ một người lại có bố mẹ ở thành phố. Liệu có sự nhầm lẫn không nếu sau đó họ không đổi áo lại cho nhau?
Nhận được nguồn tin quan trọng ấy, kết hợp với những thông tin về Hoàng Mai do các con cung cấp, chú đã khẳng định đúng Hoàng Mai và Lò Văn Sao là anh em sinh đôi. Người xấu số mới là Lò Văn Sao còn Hoàng Mai chỉ là kẻ đội lốt anh ta…Một mắt xích quan trọng của vụ án đã được lần ra. Nhưng tuyệt vời hơn là sau đó không lâu, mắt xích thứ hai của vụ án cũng tình cờ được khám phá…
– Ý chú muốn nói đến kẻ đội lốt cán bộ Bảo tàng tỉnh? Tuấn Minh hồi hộp ngắt lời Đại úy.
– Đúng vậy! Nhưng chuyện này cũng lắt léo lắm! Để chú cho các con xem trước thứ này đã. Đại úy lấy trong cặp ra một cuốn sách còn mới đưa cho hai anh em. Tuấn Minh lật bìa trước bìa sau xem qua rồi thốt lên – Một tập thơ!
Đại úy Cầm Bá Lâm gật đầu cười nói:
– Đây là tác phẩm đầu tay của Trần Cao Sơn. Ở thành phố cháu đã từng nghe nói đến tác giả này bao giờ chưa?
Tuấn Minh không hiểu Đại úy có ý gì mà lại đặt một câu hỏi chả ăn nhằm gì với cái đề tài đang bàn như vậy. Nó trả lời cho qua:
– Mấy năm nay các tác giả có thơ in sách rất nhiều. Thơ của họ phần lớn chưa được các báo và tạp chí sử dụng. Nhưng cơ chế xuất bản bây giờ lại rất thoáng nên cứ có kinh phí là in được nên họ bỏ tiền xin giấy phép xuất bản, tự in rồi tự đem đi bán. Thường thì ông nào cũng in ảnh và tiểu sử trích ngang rất trang trọng ở bìa bốn như thế này.
– Chú cảm ơn cháu! Điều chú muốn nói ở đây là chính nhờ tập thơ này mà chú đã lần ra được chân dung kẻ lừa đảo đấy!
Tuấn Minh hồi hộp hỏi:
– Thật vậy hở chú? Trong tác phẩm này có bài thơ nào nói về gã lừa đảo ấy à?
Đại úy lắc đầu:
– Không phải từ những bài thơ trong tập mà là nhờ bức chân dung khổ lớn in ở bìa bốn này kia! Chuyện thế này. Ngay sau hôm được cháu cung cấp nguồn tin về thầy giáo Tâm và kẻ mang danh cán bộ Bảo tàng cùng Lò Văn Sao cầm giấy tờ giả mạo đi mua cổ vật, chú cũng bố trí lên gặp thầy để tìm hiểu thêm một số vấn đề. Trước khi đi chú có chuẩn bị ít quà. Biết thầy thích sách, thấy trên bàn thủ trưởng cơ quan có đến chục tập thơ mới mua chú xin một tập mang theo. Đến nhà thầy, đang ngồi nói chuyện thì ông trưởng bản Tùm đến chơi. Ông ta cầm tập thơ xem rồi thốt lên: “Thầy giáo xem này! Thế mà thầy cứ lo chúng tôi bị bọn xấu lừa. Cái ông cán bộ được Lò Văn Sao đưa đến nhà thu hồi cái trống đồng cho Bảo tàng tỉnh chính là nhà thơ này chứ còn ai!”
Thầy Tâm đặt chén nước xuống, hồi hộp hỏi: “Anh nhận dạng có chính xác không?” Ông trưởng bản Tùm nói: “Không sai mà thầy! Ngoài đời làm sao thì trong ảnh làm vậy. Tôi không nhầm đâu. Uí chà chà! Bác ấy tài thật. Thì ra bác ấy còn là nhà thơ nữa!”
Nghe hai người nói chuyện, chú suýt reo lên, nhưng may là đã kìm nén được. Sợ hỏng việc, chú đưa mắt ra hiệu cho thầy Tâm. Thầy Tâm hiểu ý chú nên vỗ vai ông trưởng bản Tùm cười nói: “Là tôi cũng lo xa thế thôi. Nhưng nay anh đã nhận đúng ảnh người cán bộ ấy thì tôi thật sự yên tâm rồi!”
Vậy là rất may, tình cờ chú lại tìm thêm được một đầu mối quan trọng nữa của vụ án lừa đảo. Đợi ông trưởng bản Tùm ra về, chú ngồi nói chuyện thêm với thầy Tâm một lúc nữa rồi cũng xin phép thầy trở về cơ quan.
Ngay sáng hôm sau chú phóng xe xuống Hội Văn nghệ tỉnh để xác minh nhân thân của Trần Cao Sơn. Các anh lãnh đạo Hội cho biết Trần Cao Sơn không phải là hội viên. Muốn tìm hiểu về con người này thì cứ theo mấy dòng lí lịch trích ngang ở bìa bốn tập thơ mà hỏi. Chú lại phi xe về thị trấn Nam Sơn. Gặp lãnh đạo địa phương, các anh ấy cho biết Trần Cao Sơn tên thật là Trần Cao Đại, từng là lái xe của Công ty vận tải quá cảnh, chuyên chở hàng chiến lược cho nước bạn Lào. Trong chiến tranh, nhiều lần khi qua phà Nam Sơn Đại đều có hành vi bán bớt hàng hóa để lấy tiền tiêu sài. Công an kinh tế đã lập chuyên án theo dõi và bắt quả tang khi Đại đang tuồn hàng cho tư thương. Đại bị truy tố, phải ngồi tù năm năm. Ra tù Đại trở về địa phương sống bằng nghề buôn bán lâm sản và ghi số đề. Gần đây Đại bỗng dưng tuyên bố “rửa tay gác kiếm” và quay ra làm thơ, in sách rồi mang đến các huyện và các cơ quan, trường học bán. Thu nhập nghe nói còn cao hơn cả mấy ông nhà văn, nhà báo chuyên nghiệp. Đến đây thì có thể khẳng định Trần Cao Sơn chính là kẻ đã được Hoàng Mai bố trí đóng giả vai cán bộ Bảo tàng và văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, cầm giấy giới thiệu rởm do y làm để chiếm đoạt cổ vật và gạ gẫm già Quế định mua bộ xương hổ của già. Việc chúng chưa vận chuyển cái trống đồng ra khỏi địa bàn có lẽ là còn chờ nghe ngóng động tĩnh và tìm mối tiêu thụ. Mẻ lưới này sắp cất được rồi. Căn cứ lời hẹn với ông nội của Hoàng Mai, có thể xác định tối mai, thứ bảy chúng sẽ đưa phương tiện lên để chuyển cái trống đồng cất giấu trong Hang Dơi về thành phố. Đây là thời điểm bọn buôn bán động vật hoang dã và vận chuyển hàng lâm sản tận dụng vì các lực lượng kiểm tra nghỉ cuối tuần. Rất có thể để giữ bí mật và cho thật an toàn, Trần Cao Sơn chỉ thuê phương tiện còn mình tự lái lấy. Đại úy Cầm Bá Lâm nhìn hai anh em tiếp – Bây giờ chú đề nghị thế này. Chúng ta còn một nhiệm vụ cuối cùng, bắt gọn Hoàng Mai và Trần Cao Sơn cùng tang vật là kết thúc thắng lợi chuyên án. Nếu công an đưa lực lượng lên mai phục chúng sẽ sinh nghi và sẵn sàng bỏ của chạy lấy người. Vì vậy sự cộng tác của các con lúc này là rất cần thiết. Bố đề nghị chiều mai hai anh em cùng lên trại rừng, bí mật theo dõi xem chúng chuyển cổ vật lên xe bằng cách nào. Khi xe chạy các con dùng máy bộ đàm báo cho chú. Các chú bố trí lực lượng mật phục ngay ngoài ngã ba Bù Đồn. Thắng lợi ở trong tầm tay rồi. Các con chú ý phải thật khôn khéo, đừng để chúng nghi ngờ.
Tú hỏi:
– Thế còn con trâu của bà thím thì giải quyết bằng cách nào bố?
Đại úy nói:
– Các con yên tâm. Việc này bố sẽ bàn với Trưởng Công an xã. Ngay ngày mai các chú ấy sẽ gọi Hà Văn Tạo lên trụ sở Uỷ ban, bắt y tường trình sự việc rồi vào Rừng Ma đưa trâu về cho bà thím.
Đại úy lấy trong cặp ra cái máy bộ đàm, hướng dẫn cách sử dụng rồi trao cho Tuấn Minh:
– Cháu cầm lấy. Lúc nào cần thì gọi cho chú!
Tuấn Minh đón lấy cái bộ đàm. Chợt trong đầu bật ra một ý nghĩ. Nó hỏi:
– Chú ơi, lúc liên lạc thì gọi thế nào? Phải có một biệt danh gì chứ?
Đại úy xoa đầu nó, cười nói:
– Chú hiểu ý cháu rồi. Cho li kì như phim hình sự phải không? Vậy thế này nhé. Các con là Sông Đặt, còn chỗ chú là Sông Chu. Sông Đặt gọi Sông Chu. Nghe rõ trả lời! Được chưa? Rồi Đại úy vỗ vai cả hai anh em hỏi – Thế nào? Nhiệm vụ có khó khăn lắm không?
Tú nhìn Minh, có ý muốn nhường quyền trả lời cho ông anh họ. Tuấn Minh đáp:
– Thưa chú, nhất định anh em con sẽ hoàn thành nhiệm vụ!
***
Chập tối hôm sau chiếc Zin ba cầu kéo còi, gầm gừ bò lên con đường dốc. Hoàng Mai nhảy xuống, tìm chỗ si nhan cho nó quay đầu. Chiếc xe tiến lên, lùi xuống một lúc rồi dừng lại bên đống gỗ bạch đàn ông nội cho người xếp gọn bên đường. Gã lái xe cũng mở cửa nhảy xuống rồi cả hai cùng kéo lên đồi. Tuấn Minh và Tú vội nấp vào sau một chỗ kín đáo. Qua khe hở tấm vách nứa hai đứa hết sức ngạc nhiên bởi nhận định của Đại úy Cầm Bá Lâm thật chính xác. Lái xe không phải ai khác mà chính là nhà thơ Trần Cao Sơn. Hoàng Mai đến bên nội, rút trong túi ra một tập tiền, nói:
– Bố chu đáo quá. Thiếu nhiều tiền nữa không, con gửi bố. Còn cái hợp đồng bố đã xin đủ dấu và chữ kí của xã cho con chưa?
Nội đưa cho gã tờ giấy nãy giờ vẫn cầm sẵn trong tay, nói:
– Hợp đồng đây. Dấu má, chữ kí đủ cả rồi. Anh đưa thêm cho tôi hai trăm ngàn đồng nữa. Sao không đánh xe lên sớm một lúc. Mấy người tôi nhờ bốc đợi mãi, thấy muộn họ về cả rồi!
Hoàng Mai gấp cái hợp đồng, nhét vào túi quần sau, nói:
– Không sao bố ạ! Sáng mai bốc cũng được. Xe trục trặc, bọn con phải nằm ngoài Bù Đồn sửa mất hơn hai tiếng. Tiện thể cơm nước ở đó luôn nên mới lên muộn thế này. Gã đảo mắt nhìn quanh, hỏi – Thế mấy thằng cháu đâu? Không có đứa nào lên ngủ với bố cho vui à?
Nội lắc đầu:
– Bọn chúng nó ở nhà với bà. Mình tôi với con chó này là đủ. Nào, anh em lên chòi uống nước, nghỉ ngơi đã. Hôm nay tôi thấy trong người khó chịu quá, phải đi ngủ sớm đây!
Hoàng Mai nói:
– Bố mệt cứ lên chòi ngủ cho ngon giấc đi. Tối nay bọn con ngủ dưới xe để còn phải trông chừng bọn xấu. Nhỡ có thằng nào đi qua nó tháo mất cái bình ắc qui thì chết dở.
– Vậy tùy các anh. Nhớ mắc màn. Trên này nhiều muỗi lắm!
Nội nói rồi vác dao quắm lên chòi. Cả hai thằng cùng thở phào. Nếu bọn Hoàng Mai cũng lên chòi uống nước theo lời mời của nội thì hai anh em chỉ còn cách chuồn lên rừng mới không bị chúng phát hiện.
Đêm ập xuống rất nhanh. Hai thằng buông màn ngồi dán mắt nhìn qua cửa sổ chăm chú theo dõi mọi động tĩnh dưới đường. Cái bếp dầu trên thùng xe hắt vào khoảng không một quầng sáng xanh lè. Mùi cà phê sữa thơm ngào ngạt theo gió bay lên. Tuấn Minh nuốt nước bọt lẩm nhẩm:
– Bọn này sài sang thật!
Thời gian chậm chạp trôi. Trăng hạ tuần như một cánh diều mỏng nhô mình khỏi cánh rừng phía đông. Cái lạnh đêm hè vùng sơn cước ngấm dần vào da thịt. Hai mắt Tuấn Minh cứ muốn díu lại. Dưới đường, cái bếp dầu đã tắt. Trên thùng xe chỉ còn hai đốm lửa nhỏ lập lòe phát ra từ đầu hai điếu thuốc lá. Bất chợt Tú vỗ nhẹ vào vai Tuấn Minh:
– Bắt đầu rồi!
Tuấn Minh dụi mắt, vươn vai cùng Tú trườn ra khỏi màn, rón rén lần lại cầu thang, cố không gây một tiếng động nhỏ nào để làm nội phải thức giấc. Dưới đường, hai bóng đen đã rời khỏi thùng xe. Chúng bấm đèn pin, lừ lừ tiến về phía Hang Dơi. Đợi cho chúng đi khuất một lúc, hai anh em mới tụt khỏi cầu thang. Con Lu từ tối đến giờ vẫn đợi ở đó. Tuấn Minh và Tú vừa đặt chân xuống đất nó đã nhảy lên, ngoe nguẩy đuôi chờ để được hai ông chủ nhỏ gọi đi theo. Tuấn Minh nhìn con Sói xám rồi lại nhìn Tú nói:
– Việc này, nếu nó cũng đi theo sẽ rất bất lợi. Em kiếm đoạn thừng buộc lại đi.
Tú nói:
– Anh yên tâm. Để em đọc lệnh là nó tự biết phải ở lại. Không cần trói buộc đâu! Rồi nó ôm lấy cổ con Sói xám, chỉ vào chân cầu thang nói nhỏ – Lu, lại kia nằm!
Tức thì con chó ngoan ngoãn đến nằm dưới chân cầu thang.
Hai anh em lại hăm hở chạy xuống chỗ cái ô tô đang đậu. Chúng khẩn trương trèo lên thùng xe xem xét. Sàn gỗ lăn lóc mấy cái vỏ bia lon, rất nhiều lá gói nem và mấy cái vỏ đựng cà phê sữa. Trên xe chỉ có một cái phuy đựng xăng loại hai trăm lít. Tú hỏi:
– Anh bảo chúng nó sẽ giấu cái trống đồng ấy vào chỗ nào?
– Anh cũng đang nghĩ đến điều đó đây. Giấu vào chỗ nào nhỉ? Để trong thùng xe chắc chắn sẽ bị gỗ đè bẹp dúm hết.
– Hay chúng nó giấu trên ca bin?
Tuấn Minh cười:
– Em ngây thơ thế? Nếu để trên ca bin mà đưa đi được thì cần gì chúng nó phải mua gỗ ngụy trang. Tuấn Minh vừa nói vừa với tay lay lay cái phuy rồi khẽ reo lên – Ơ-rê-ca!
Tú hồi hộp hỏi:
– Gì thế anh?
– Tìm thấy rồi! Tuấn Minh vật cái phuy nằm xuống sàn xe. Cái phuy không có đáy. Nó quả quyết – Cổ vật sẽ được giấu trong cái vỏ phuy rỗng này. Bọn nó cáo thật. Tuấn Minh dựng cái vỏ phuy vào chỗ cũ rồi giục Tú – Bọn mình rút thôi. Gìơ này có lẽ chúng nó cũng sắp ra rồi.
Hai anh em nhảy khỏi thùng xe, khẩn trương rút lên chòi. Ít phút sau hai bóng đen cũng lù lù trở lại. Một thằng đi trước bấm đèn soi đường, một thằng vác cái bì lầm lũi bám theo sau, trông xa cứ như một đoạn phim hình sự. Công việc tiếp theo chúng làm đúng như anh em Tuấn Minh nhận định. Cái trống đồng được xếp gọn vào trong ruột cái vỏ phuy không đáy. Sau đó những khúc gỗ bạch đàn mới được chuyển lên xe. Công việc chúng làm thật khẩn trơng và rất nhẹ nhàng, không hề phát ra một tiếng động mạnh. Chỉ một giờ sau đống gỗ đã được xếp gọn lên thùng xe…Có tiếng gà rừng gáy ở trên cao. Tuấn Minh xem đồng hồ. Đã gần một giớ sáng. Tú hỏi:
– Anh bảo chúng nó đi luôn hay chờ trời sáng?
– Chắc chắn là chúng nó sẽ đi luôn! Tuấn Minh đáp.
Tuấn Minh nói vừa dứt lời thì dưới đường đột ngột vang lên tiếng động cơ ô tô nổ giòn giã. Nội vùng dậy, hé cửa sổ nhìn xuống. Sau tiếng còi lảnh lót là tiếng Hoàng Mai nói vọng lên:
– Bố già ngủ ngon. Bọn con đi nhé!
Cả hai chiếc đèn pha cùng lúc bật sáng. Con đường dốc và cánh rừng trước mặt hiện ra rõ từng gốc cây, ngọn cỏ. Chiếc Zin rú ga rồi từ từ lăn bánh…
Nội xuống cầu thang, dương đèn rọi xuống đường, lắc đầu nói:
– Bọn này quỷ quyệt thật! Để xem chúng nó có mang nổi cổ vật đi thoát được không!
Cả hai thằng đều rất ngạc nhiên. Tuấn Minh hỏi:
– Nội! Vậy ra nội cũng biết trên xe chúng nó chở thứ gì rồi à? Chú Lâm cho nội biết chuyện này rồi phải không?
Nội xoa đầu hai thằng, cười nói:
– Thế hai đứa nghĩ chỉ có chúng mày mới được giao nhiệm vụ theo dõi bọn chiếm đoạt cổ vật chắc!
– Vậy sao lúc chập tối nội còn mời họ lên uống nước, ngủ lại. Nội biết nếu Hoàng Mai thấy anh em cháu ở trên chòi hắn sẽ chủ động bỏ phi vụ này mà?
Nội vuốt râu, cười nói:
– Biết chứ! Nhưng nội thừa biết có dọn yến mời chúng nó cũng không lên!
– Ôi! Bọn cháu chịu nội! Cả hai cùng nhào lại ôm chầm lấy nội. Sực nhớ nhiệm vụ. Tuấn Minh rút bộ đàm, mở máy, lên tiếng gọi:
– A lô! Sông Đặt gọi Sông Chu! Mục tiêu đã lên đường lúc một giờ năm phút! Hàng được giấu trong ruột cái thùng phuy không đáy!
11
Thời gian trôi thật nhanh. Mới đó mà một tuần lễ ở chơi trên quê nội của Tuấn Minh đã sắp hết. Bố cũng đã hoàn thành chương trình của đợt công tác ở huyện. Bố nhắn thím Lâm quãng mười giờ trưa mới có mặt ở nhà vì buổi sáng còn phải gặp gỡ với mấy người bạn học cũ. Chiều nay nội sẽ tổ chức bữa cơm liên hoan để tiễn bố con Tuấn Minh sáng mai trở về thành phố. Cả Minh và Tú đều phải ở nhà để giúp bà và thím Lâm làm cơm. Như vậy là Tuấn Minh chỉ còn đúng một buổi sáng. Làm gì thì chỉ được một việc. Tuấn Minh vừa muốn dành thời gian cùng thầy giáo Tâm sang Kụt Ạc tổ chức ghi âm mấy làn điệu Sắc bùa của một nghệ nhân già trên ấy, nửa lại muốn lên Bàn Tạn thăm già Quế để xem cái bộ xương hổ già sắp bỏ nấu cao nó có hình thù thế nào. Lại còn chương trình cùng Tú vào Rừng Ma khuyên cô Mai sớm đưa bé Suối về sống với cộng đồng để em được đi học, nhân thể xin một con rùa núi đem về thành phố nuôi làm cảnh nữa. Thấy hai anh em đang ngồi xì xầm bàn bạc để phân chia thời gian, nội nhắc:
– Sáng nay hai thằng có định đi đâu thì cũng phải dành thời gian lên thăm ông bà Páo một lúc nhé! Việc chú Sao chết đuối chắc chắn đã làm cho ông bà ấy bị xốc. Anh em lên trước lựa lời an ủi họ một tí kẻo ngày mai ông mới đi được. Chết thật! Nội không nhắc thì cả Tuấn Minh và Tú đều quên mất. Hai anh em quyết định lên bản Tôm thăm ông bà Páo trước. Tú xăng xái định vác cái xe địa hình xuống, nhưng bị Tuấn Minh ngăn lại:
– Đi bộ thôi! Anh còn muốn chụp thêm ít pô ảnh dọc đường!
Tuấn Minh nói vậy để Tú chấp nhận đi bộ với mình chứ thật ra nó rất hãi khi phải ngối sau xe với thằng em họ.
– Như vậy thì lâu chết! Tú tỏ ra không vui nhưng cũng đành chấp nhận cất xe để đi bộ cùng Tuấn Minh.
Vừa lên đến bạc cuối cùng của cái cầu thang cũ kĩ, cả hai thằng đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy trong gian nhà rộng ngoài ông bà Páo còn có một cô gái trẻ nữa. Cả ba người đều đang khóc. Tú bấm Tuấn Minh nói khẽ:
– Cô giáo Lả, người yêu của chú Sao đấy!
Thấy hai thằng, cô giáo rút khăn lau nước mắt đi lại hỏi:
– Các em lên chơi đấy à? Cô lấy chiếu trải xuống sạp, nói – Hai em ngồi xuống đi.
Hai anh em ngồi xuống chiếu mà không biết nên bắt đầu câu chuyện như thế nào. Ông bà Páo thì từ lúc hai thằng lên nhà đến giờ vẫn cúi đầu ngồi lặng lẽ khóc. Không khí cứ như là nhà có tang. Lúc sau Tuấn Minh đứng dậy, đến bên ông bà Páo nói:
– Thưa ông bà, thưa cô giáo. Thật ra anh em cháu cũng không ngờ sự thể lại như vậy. Chúng cháu mong ông bà và cô giáo đừng vì chuyện này mà suy nghĩ nhiều, ảnh hưởng sức khỏe.
– Chị cảm ơn hai em! Cô giáo Lả đỡ lời Tuấn Minh – Anh Sao chết đối với chị và bố mế đây thật là một nỗi đau quá lớn. Nhưng nếu không có các em, không có các anh ở Công an huyện điều tra, làm sáng tỏ mọi chuyện thì sự việc sẽ còn tệ hại hơn nhiều. Hai anh em đến thăm ông bà hay còn có chuyện gì cần hỏi không?
– Dạ, không ạ! Tuấn Minh nhanh miệng đáp – Chả là sáng mai em đã phải về thành phố, bọn em lên thăm ông bà và chào ông bà để đi. Mong ông bà giữ gìn sức khỏe.
– Vậy hai em ở lại đây chơi rồi về sau nhé! Cô giáo nói – Bây giờ chị phải lên Rừng Ma có chút việc.
– Cô lên Rừng Ma làm gì? Tú hỏi.
– Là thế này! Cô giáo giải thích – Bố mế đây đều đã già yếu lắm rồi. Nếu anh Sao còn sống thì chắc chắn cuối năm nay chị sẽ được về làm dâu họ Lò để cùng anh phụng dưỡng bố mế. Nhưng giờ thì biết chắc anh không còn nữa nên chị quyết định xin bố mẹ đẻ cho xuống đây ở để phụng dưỡng bố mế thay anh. Hôm nay chị định lên Rừng Ma nói chuyện và mời chị Mai đưa bé Suối về ở với chị cho vui cửa vui nhà, vừa có thêm người đỡ đần chăm sóc bố mế anh Sao những khi chị đến trường. Chị cũng muốn có thêm điều kiện để kèm cặp cho bé Suối học, vì nó đã chín tuổi rồi mà vẫn chưa biết chữ.
Cả Tuấn Minh và Tú đều thật sự bị bất ngờ và hết sức xúc động trước tấm lòng hiếu kính người già và thương yêu con trẻ của cô giáo Lả. Tuấn Minh nói:
– Nếu vậy cô cho bọn em cùng đi với. Bọn em cũng đang rất phân vân về chuyện mẹ con cô Mai. Riêng em, nếu trở về thành phố mà biết cô Mai và bé Suối vẫn sống cuộc sống hoang dã trong khu rừng nguyên sinh ấy thì chắc em chẳng yên tâm một chút nào. Từ năm học này em sẽ thường xuyên gửi quà và sách vở lên cho bé Suối.
Cô giáo trẻ xúc động nói:
– Được như vậy thì hay lắm! Chị cảm ơn em. Nào, ba chị em mình cùng lên Rừng Ma với mẹ con chị ấy đi!
Cô giáo Lả và hai đứa chào ông bà Páo rồi hối hả xuống cầu thang, nhằm hướng khu rừng nguyên sinh rảo bước. Dọc đường đắn đo mãi Tuấn Minh mới đưa ra được câu hỏi vẫn làm nó phải suy nghĩ lâu nay:
– Cô ơi, cô thông cảm cho em hỏi thật điều này. Từ ngày Hoàng Mai về cô có nhận ra điều gì khác lạ ở anh ta không?
Cô giáo buồn buồn đáp:
– Lúc đầu thì chị không để ý. Nhưng càng ngày chị càng thấy ngờ ngợ. Anh ta có những cử chỉ và việc làm nhiều lúc không được tự nhiên. Trí nhớ thường lẫn lộn. Mỗi lần chị nhắc đến một kỉ niệm cũ ngày còn đi học anh ta chỉ im lặng ngồi nghe mà không bàn góp một lời. Khác với những bức thư dài gửi từ Tây Nguyên về cho chị trước đó, thư nào anh cũng dành một hai trang nhắc lại những kỉ niệm đẹp của những năm tháng ấy. Nhưng điều đáng phàn nàn nhất là cách đối xử của anh ấy với bố mế. Ông bà Páo tuy chỉ là bố mế nuôi nhưng cả bản này ai cũng phải công nhận không ai quí và thương con bằng ông bà ấy. Ngày còn ở nhà Sao là người con rất có hiếu. Anh luôn dành cho bế mế nuôi những tình cảm và sự chăm sóc ân cần nhất. Việc anh vào Tây Nguyên làm kinh tế cũng chỉ nhằm mục đích kiếm ít vốn để về cưới vợ và có thêm điều kiện phụng dưỡng bố mẹ nuôi. Vậy mà từ ngày trở về, chỉ được một hai tháng đầu còn về sau anh đối xử với những người đã có công nuôi dưỡng mình chẳng ra gì. Từ ngày làm nghề xe ôm, lấy lí do phải chạy xe theo yêu cầu của khách, anh đi về rất thất thường. Nhiều bữa chị lên thấy hai ông bà đang ngồi khóc bên soong cơm nguội lạnh. Nhưng chuyện làm chị phải suy nghĩ nhiều nhất là việc anh mua vật liệu, thuê thợ xây thêm cái nhà lợp ngói rồi bỏ ra ở riêng. Chị hỏi thì anh bảo làm thế để lúc đi về có chỗ cất xe chứ dựng cạnh cầu thang đêm hôm ngủ say rất dễ bị mất trộm. Chị có cảm giác bây giờ anh coi việc phải nuôi dưỡng bố mẹ nuôi như một cái gánh nặng. Ông bà Páo thì do không được chăm sóc tử tế, sức khỏe ngày một sa sút nhiều. Cô giáo nói đến đây bỗng buông một tiếng thở dài – Thôi, thế cũng còn may. Nếu sự thật không bị bóc trần thì hậu họa không biết sẽ còn đi đến đâu nữa! Tội nghiệp anh Sao! Chị nguyện sẽ thay anh phụng dưỡng, chăm sóc để bố mế anh đỡ khổ những năm tháng cuối đời.
Mãi nói chuyện ba chị em đã leo đến đỉnh con dốc dài trước khu rừng nguyên sinh. Tú bỗng chỉ tay về phía trước, nói:
– Xem kìa! Có hai người đang đuổi trâu từ trong Rừng Ma ra. Một người đi cà nhắc. Đúng là chồng cô Mai rồi. Còn người đi sau là ai mà vai đeo sắc cốt như cán bộ ấy nhỉ?
Chờ hai người đi thêm một quãng nữa, Tú vỗ tay reo lên:
– Em nhận ra rồi! Đấy là chú Vi Văn Thế, Trưởng công an xã! Chắc là chú ấy áp giải Hà Văn Tạo lên Rừng Ma dắt trâu về.
Cô giáo ngơ ngác hỏi:
– Trâu nào ở trong Rừng Ma? Vì sao chồng chị Mai lại bị công an xã áp giải?
Tú nói qua sự việc cho cô giáo hiểu. Cô giáo thở dài nói:
– Thật không ngờ một người hiền lành như Hà Văn Tạo lại cũng làm những việc xấu xa như vậy!
Hai người dắt trâu trong Rừng Ma đi ra đúng là Hà Văn Tạo và chú Vi Văn Thế, Trưởng công an xã. Vừa trông thấy Tuấn Minh và Tú, Hà Văn Tạo vội cúi mặt xuống, lùi lũi dắt con xứt tai đi qua. Chú Thế dừng lại hỏi:
– Cô giáo lên Rừng Ma làm gì mà cũng đi sớm thế?
Cô giáo Lả đáp:
– Tôi lên thăm mẹ con chị Mai!
– Thế còn hai cậu ? Trưởng công an xã quay sang Minh và Tú – Tôi vừa được thông báo các cậu là những người đã có công làm rõ nguyên nhân cái chết của liệt sĩ Cầm Bá Kiên, giúp Công an huyện phá vụ án lừa đảo chiếm đoạt cái trống đồng ở bản Tùm và cả những vụ bắt trộm trâu này nữa phải không? Giỏi lắm! Đúng là con nhà nòi! Cho chú được bắt tay một cái nào.
Trưởng công an xã thân mật lần lượt nắm tay hai thằng lắc lắc. rồi quay lại hỏi cô giáo Lả:
– Thế cô giáo lên chỗ mẹ con cô Mai chơi hay có việc gì khác nữa không?
– Cũng chẳng có việc gì quan trọng lắm. Cô giáo trẻ đáp – Sáng nay được tin anh Sao đã chết trong vụ đắm đò ở Thác Mạ năm ngoái, còn người mang tên anh chỉ là người anh song sinh nhưng lại là một tên tội phạm, bố mế em giục em lên thăm và an ủi ông bà Páo. Em đã bàn và xin bố mế cho em được lên đấy ở để chăm sóc bố mẹ nuôi anh Sao. Gìơ em lên bàn với chị Mai đưa bé Suối về cùng ở với em cho vui. Em cũng muốn có thêm điều kiện để dạy chữ cho bé Suối vì cháu đã chín tuổi rồi mà vẫn chưa được đi học.
– Hay quá! Trưởng công an xã phấn khởi nói – Cô giáo có một tấm lòng thật đáng quí. Vấn đề mẹ con cô Mai thật sự cũng đang làm chúng tôi phải đau đầu. Sau ngày nhận được công văn của Uỷ ban bảo vệ chăm sóc bà mẹ, trẻ em huyện, Uỷ ban nhân dân xã đã họp để bàn biện pháp giải quyết dứt điểm việc này. Nhưng cho đến bây giờ quả là chúng tôi vẫn chưa tìm ra được giải pháp nào để sớm đưa mẹ con cô ấy về sống với cộng đồng. Mấy lần cử người lên vận động cô ấy vẫn một mực từ chối. Lý do là cho đến bây giờ cô ấy vẫn rất hận bố mẹ chồng. Đùng một cái thì sáng nay nhận được thông báo tên tội phạm Hoàng Mai, kẻ đang đội lốt Lò Văn Sao, người em song sinh của mình chẳng những là kẻ chủ mưu vụ chiếm đoạt cái trống đồng ở bản Tùm mà còn là thủ phạm chính một đường dây làm giấy tờ giả và bắt trộm trâu bán cho bọn thương lái. Hà Văn Tạo biết tội, đã lên gặp tôi tự thú. Tôi đã báo cáo Chủ tịch xã và các anh ấy đồng ý để tôi đưa Tạo lên dắt trâu về. Nếu cô giáo có ý định này thì quả là cô đã giúp địa phương giải quyết được một việc khá khó khăn. Thay mặt Uỷ ban, tôi xin được nói lời cảm ơn tấm lòng quý báu của cô giáo. Còn bây giờ thì thế này. Nhân có hai cháu đây vừa là những người đã có công tìm ra đầu mối vụ án, vừa là người thân của bà Hà Thị Mến, tôi xin bàn giao con trâu cho hai cậu, nhờ hai cậu dắt về trao lại cho bà Mến trước. Còn tôi và chú Tạo sẽ cùng cô giáo trở lại Rừng Ma để thuyết phục mẹ con cô Mai về bản Tôm ở cùng cô giáo và ông bà Páo. Cô giáo thấy có được không?
Cô giáo trẻ vui mừng nói:
– Được thế thì hay quá! Nếu cả chú và anh Tạo cùng lên với cháu để nói rõ điều hơn lẽ thiệt thì chắc chắn chị ấy sẽ ưng cái bụng ngay thôi.
– Còn hai cậu? Có đồng ý với đề nghị của tôi không?
Tú đưa mắt nhìn Tuấn Minh rồi nói:
– Vâng! Chú để bọn cháu dắt trâu về trước cũng được.
Hà Văn Tạo tuy đứng khá xa nhưng vẫn nghe rõ mọi chuyện. Anh ta đợi Tuấn Minh và Tú đến gần, cúi đầu dúi cái dây thừng cho hai thằng rồi lầm lũi cà nhắc quay trở lại để cùng Trưởng công an xã và cô giáo Lả trở vào Rừng Ma.
Hai anh em dắt trâu xuống con đường dốc rồi theo lối mòn trở ra. Đến Ngồng, con xứt tai đột nhiên dừng lại, nghểnh đầu kêu ọ ọ khi nghe trong rừng vọng ra tiếng mõ lóc cóc.
– Có chuyện gì mà tự nhiên nó dừng lại thế? Tuấn Minh hỏi.
– Nó đã nhận ra đàn trâu đang ăn cỏ trong rừng đấy! Tú vừa giải thích vừa với tay mở cái nút thừng buộc mũi trâu ra. Tuấn Minh hốt hoảng hỏi:
– Kìa, sao em lại tháo thừng ra?
– Để mũi xổng cho đỡ vướng! Em thả nó vào rừng ăn cùng bầy đàn luôn đây.
– Đừng! Nhỡ nó bị lạc hoặc kẻ xấu lại bắt mất rồi bọn mình ăn nói với bà thím làm sao?
– Anh yên tâm đi! Lạc nhà theo chó, lạc ngõ theo trâu. Con xứt tai này nhớ đường giỏi lắm! Ăn no, chiều nó lại về chuồng thôi mà. Còn chuyện bị kẻ xấu bắt trộm thì từ nay chắc không xảy ra nữa đâu. Tú vỗ nhẹ vào mông con trâu, Con trâu ngoái nhìn hai đứa rồi hăm hở phi vào rừng…
Tuấn Minh nhìn đồng hồ nói:
– Chưa đến chín giờ! Anh em mình lên trại rừng của nội chơi một lúc đã đi. Anh muốn chụp mấy pô ảnh và chào tạm biệt con Sói xám trước khi về thành phố.
– Thế cũng được! Tú nói – Em định thả trâu xong thì quay lại Rừng Ma vì anh em mình còn quên mất một việc…
– Việc gì? Tuấn Minh hỏi – Có quan trọng lắm không?
– Anh quên rồi à? Con rùa núi! Sáng nay anh chẳng bảo nếu lên thăm mẹ con cô Mai phải xin một con rùa núi đem về thành phố nuôi làm cảnh là gì?
– Anh nhớ rồi! Tuấn Minh vui vẻ – Nhưng việc ấy bây giờ anh lại thấy không nên làm nữa. Tốt hơn hết là cứ để những con vật nhỏ bé và đáng yêu ấy được sống bình yên trong môi trường thiên nhiên quen thuộc. Mình đem về nuôi trong bể cảnh, nhỡ chăm sóc không ra gì làm nó ốm đau hoặc chết hóa chẳng uổng phí ư! Nhưng nếu em không nhắc thì đúng là anh cũng quên mất. Còn một chuyện đến bây giờ anh vẫn chưa hỏi nội…
– Chuyện gì anh?
– Chuyện cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình giết con hổ xám!
– Đúng rồi! Vậy chiều nay anh nhớ nhắc để nội kể cho mà nghe kẻo uống rượu say là nội ngủ đến sáng mai mới dậy đấy! Nào, giờ anh em mình lên chơi với con Sói xám một lúc đi.
12
Bữa cơm liên hoan để chia tay bố con Tuấn Minh về thành phố thật đông vui. Ngoài ông bà nội, bố con Tuấn Minh, vợ chồng chú Lâm và thằng Tú nội còn mời cả bà thím. Gìa Quế và thầy Tâm cũng được mời nhưng mỗi người đều có lí do riêng nên không có mặt. Trong mâm có rất nhiều món ngon. Ngoài cơm nếp, rượu ngâm mật ong, thịt gà luộc, cá rán, măng chua, canh đắng là những thứ cây nhà lá vườn, còn có cả nem, giò và cô-ca-cô-la thím Lâm mua ở phố huyện đem về nữa. Lúc đầu thím định dọn hai mâm nhưng nội bảo chỉ cần bày một mâm để mọi người cùng ngồi vừa ăn vừa nói chuyện cho vui. Trong lúc chờ chú Lâm đi mời bà thím, Tuấn Minh sà đến bên nội hỏi:
– Nội à, cháu nghe em Tú bảo cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình hồi mới mười lăm, mười sáu tuổi đã giết được một con hổ dữ ở bản Ngồng chỉ bằng một viên đạn súng săn phải không? Chuyện ấy thế nào nội?
Nội gật đầu rồi rít một hơi thuốc lào, ngửa mặt thả khói lên trần nhà, nói:
– Chuyện cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình giết hổ cứu người khắp vùng này ai cũng biết. Nhưng thằng Tú đã kể cho cháu nghe chuyện cọp bản Ngồng chưa?
– Em đã kể rồi ạ!
– Vậy thì ông không nhắc lại nữa. Bây giờ ông chỉ nói về con hổ dữ nhất trong bầy hổ ấy thôi. Đó là một con hổ xám rất liều lĩnh và dữ tợn. Nó thường một mình xộc vào các bản ngay giữa ban ngày để bắt lợn và vồ người. Các phường săn trong vùng đã tìm mọi cách để tiêu diệt nó mà không được. Năm ấy cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình tuy chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi nhưng mỗi lần nghe chuyện cọp vào bản bắt lợn, vồ người là máu cụ lại sôi lên. Cụ xin cha mua cho một khẩu súng rồi bỏ công suốt ngày luyện tập với quyết tâm phải giết bằng được con thú nguy hiểm đó để trừ họa cho dân lành. Rồi một hôm đang ngồi đọc sách, cụ bỗng nghe bên ngoài có tiếng người hô hoán: “Có hổ về bản bắt người!” Giữa ban ngày ban mặt mà hổ dám mò về làng bắt người thì chắc chắn đúng là con hổ xám ở bản Ngồng rồi! Nghĩ vậy cụ tổ nhà mình liền xách súng chạy đến chỗ đám đông. Đã có rất nhiều người đến trước cụ. Mỗi người cầm trên tay một vật dụng bằng đồng, vừa la vừa khua ầm ĩ. Con thú chồm trên bụng một người đàn ông. Nó to bằng con trâu mộng, trông rất dữ tợn. Đúng con hổ xám ở bản Ngồng rồi! Hai mắt nó nhìn chừng đám đông vây xung quanh còn bốn chân thì vẫn thay nhau dẫm lên người bị nạn. Những cái móng sắc nhọn cào rách từng mảng da thịt anh ta. Máu tươi chảy ra đỏ lòm. Người bị nạn lúc ấy đã hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. Tiếng la hét, tiếng động từ đám đông liên tục phát ra làm con hổ không dám cúi xuống để cõng con mồi tháo chạy. Đúng lúc ấy thì cụ tổ nhà mình xách súng chạy đến. Thấy cụ, mọi người rẽ ra một lối cho cụ vào. Nhiều người tin vào khả năng bắn súng của cụ. Nhưng cũng không ít người phấp phỏng lo một chuyện không hay sẽ xảy ra nếu cụ không giết được con hổ. Riêng cụ tổ nhà mình thì lại càng hồi hộp tợn. Vì đây là lần đầu tiên cụ nhìn thấy hổ, cũng là lần đầu tiên cụ thử sức mình với khẩu súng mới mua. Nếu viên đạn không trúng đích hoặc chỉ làm con thú sây sát thì thật nguy hiểm. Cụ quyết tâm phải hạ gục nó ngay từ phát đạn đầu tiên. Cụ tìm một chỗ, đứng đối mặt với con hổ, tỳ súng lên vai, nheo mắt ngắm…Giây phút chờ đợi làm lồng ngực mọi người muốn nổ tung. Cụ bóp cò. “Đoàng!” Con hổ đổ vật xuống, giãy giụa một lúc rồi nằm bất động. Viên đạn xuyên đúng vào đầu nó. Máu tươi phun ra. Mọi người hò reo ùa đến, vực người bị nạn dậy rồi lấy lá rừng xoa bóp, lấy thuốc bôi vào các vết sây sát cho anh ta. Một lúc lâu sau thì anh ta tỉnh hẳn. Người bị nạn là một thanh niên ở bản Giai bên làng Cúc. Anh ta phủ phục dưới chân cụ, vừa khóc vừa cảm ơn cụ đã cứu mạng. Cụ tổ nhà mình nổi tiếng từ sau lần giết hổ ấy.
Chuyện nội kể đã hết rồi nhưng Tuấn Minh vẫn ngồi thần mặt ra. Thấy vậy nội vỗ vai nó hỏi:
– Cháu nghĩ gì mà ngồi thần ra thế?
– Dạ…Tuấn Minh như bừng tỉnh – Cụ tổ nhà mình can đảm và bản lĩnh thật! Nghe nội kể cháu lại nhớ chuyện anh hùng Núp trong tác phẩm “Đất nước đứng lên” cúa nhà văn Nguyên Ngọc. Cụ tổ nhà mình trước khi trở thành thủ lĩnh nghĩa quân của một cuộc khởi nghĩa đã giết chết một con hổ dữ. Còn anh hùng Núp trước khi trở thành lạnh tụ cuộc kháng chiến của đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên cũng đã từng thử sức bằng cách dùng nỏ tiêu diệt một thằng Pháp. Việc làm và khí phách của hai người thật giống nhau!
– Cháu có một cách so sánh thật hay! Nội xoa đầu Tuấn Minh rồi nhìn xuống sân nói – Hình như chú Lâm đưa bà thím sang rồi. Nào, chuẩn bị ăn cơm thôi!
Mọi người lục tục ngồi xuống chiếu. Nội bảo hai anh em ngồi cả bên cạnh mình. Sực nhớ ra, Tuấn Minh quay sang hỏi bố:
– Bố ơi, thế chú lái xe không lên à?
Bố Tuấn Minh lắc đầu:
– Chú ấy đánh xe về cơ quan ngay từ chiều hôm ấy. Sáng mai lại mới từ thành phố lên. Chắc phải tám giờ mới đến huyện.
– Vậy bố con mình về phố huyện bằng phương tiện gì? Cả nhà chỉ có một cái xe máy thì chú phải đưa thím đi làm rồi!
– Yên chí đi! Chú Lâm vỗ vai Tuấn Minh – Đã có phương án chu tất cho việc này rồi! Sáng mai chú đưa thím ra Bù Đồn bắt xe ôm về huyện trước. còn chú sẽ quay lại đón hai bố con đi sau. Thế được chưa?
Tuấn Minh mừng ra mặt:
– Vậy thì cháu yên tâm rồi! Cháu rất tiếc là hôm lên, sau khi nghe chú kể về vụ đắm đò ở Thác Mạ, vì mãi suy nghĩ chuyện Hoàng Mai nên lúc qua Cửa Đặt đã quên không bảo chú dừng để vào Đền thắp hương cho Cụ Tổ. Ngày mai chú nhớ ghé vào Đền để cháu thắp cho cụ tổ nén hương nhé!
– Thằng đích tôn nghĩ phải lắm! Việc ấy rất nên làm. Nội xoa đầu Tuấn Minh rồi nhìn bố, nói – Cả anh nữa! Qua Cửa Đặt hai bố con nên dành ít phút vào Đền thắp hương cho Cụ. Trong Đền có đôi câu đối bằng chữ Hán rất hay. Là con cháu họ Cầm, các con, các cháu phải ghi nhớ và lấy làm tự hào về đôi câu đối ấy
– Nội dung đôi câu đối ấy thế nào hở nội? Tuấn Minh nôn nóng hỏi.
– Nội dung đôi câu đối ấy được phiên âm như thế này:
“Bất tử, đại danh thùy vũ trụ.
Như sinh, chính khí tắc sơn hà”.
Nghĩa là:
“Danh thơm chẳng mất trong trời đất.
Nghĩa khí mãi còn với núi sông”.
Thấy Tuấn Minh chăm chú lắng nghe như muốn nuốt lấy từng lời của nội, Tú vội đứng dậy, lại giường lấy cái máy ghi âm đưa cho nó, ghé tai nói khẽ:
– Anh bảo nội đọc lại cho mà ghi!
Tuấn Minh xua tay:
– Không cần! Anh nhớ rồi! Nó nhắc lai nguyên văn lời nội. Nội xoa đầu nó nói:
– Giỏi lắm! Thằng đích tôn của ông! Rồi nội giục – Nào, mọi người ngồi lại đi. Ta ăn cơm thôi!
Chú Lâm vội nói:
– Ông cho con xin ít phút đã! Rồi chú đứng dậy, lại bàn lấy hai gói quà, trịnh trọng đặt trước mặt Tuấn Minh và Tú nói:
– Đây là quà tặng của Trưởng Công an huyện gửi hai anh em vì đã có công giúp cơ quan phá án thắng lợi. Còn đây là quà của chú tặng hai anh em vì đã giúp chú hoàn thành nhiệm vụ! Rồi chú xoa tay, vui mừng nói – Gìơ con xin báo một tin để bà thím, bố mế và mọi người mừng là ngay tối hôm qua Thường vụ Huyện ủy và Thường trực Uỷ ban nhân huyện đã họp đột xuất, xem xét sự việc chú Kiên và quyết định thành lập một ban công tác đặc biệt hoàn tất hồ sơ đề nghị trên ghi nhận chiến công và truy tặng danh hiệu liệt sĩ cho chú. Sau đó sẽ làm tiếp hồ sơ đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho bà thím vì không những bà thím là người vợ, người mẹ có chồng, con hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ mà liệt sĩ Cầm Bá Kiên còn là con trai độc nhất của bà. Con đề nghị mọi người cùng nâng cốc chúc mừng bà thím, mừng cho dòng họ Cầm của chúng ta có thêm một Bà mẹ Việt Nam anh hùng!
Những cái li được nâng lên. Không khí buổi liên hoan đang hết sức sôi động bỗng lắng xuống khi nghe tiếng thút thít của mế Kiên. Cả nội và mọi người cùng đặt li xuống, hướng mắt về chỗ bà thím. Thấy vậy, bà thím vội đưa tay lau nhanh nước mắt rồi cười nói:
– Là tôi mừng quá nên không kìm được xúc động. Xin hai bác và mọi người cứ uống rượu vui vẻ đi! Tôi xin phép mọi người được nói lời cảm ơn hai thằng cháu. Các cháu đã tìm lại sự thật cho con tôi. Bây giờ có phải nhắm mắt tôi cũng không hổ thẹn với dân bản và dòng họ Cầm nữa rồi!
Thím nói chưa dứt lời thì dưới sân rộ lên tiếng chó sủa rồi tiếng một người nào đó khóc thật thống thiết. Mọi người vội đứng cả dậy dồn lại phía cầu thang. Một ông già tuổi gần bảy mươi, dáng đẫy đà đang quỳ phủ phục dưới đất. Tuấn Minh ghé tai Tú hỏi:
– Ai thế?
Tú cũng ghé tai Tuấn Minh nói nhỏ:
– Ông ấy là Cầm Bá Chấp, chú ruột chú Kiên đấy!
Tuấn Minh há miệng, ngạc nhiên:
– Cầm Bá Chấp, Chủ nhiệm hợp tác xã mua bán, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã hồi ấy?
Tú không đáp, chỉ gật đầu.
Nội lập cập xuống tận chân cầu thang, đưa hai tay đỡ ông ta dậy, miệng nói:
– Kìa, chú Chấp! Đứng dậy, lên nhà uống với chúng tôi chén rượu cho vui đi. Sáng mai bố con thằng Sơn về thành phố rồi.
Lão Chấp không những không chịu đứng dậy mà còn cúi gằm mặt xuống, khóc to hơn:
– Tôi không còn mặt mũi nào ngồi uống rượu với mọi người đâu. Tôi đến đây để xin lỗi chị dâu, xin lỗi mọi người và tạ lỗi trước vong linh thằng cháu. Chỉ vì tôi cả giận và nông nỗi, vội vàng nghe lời đứa xấu bụng nên đã hại cả một đời mẹ con chị. Tội tôi thật đáng chết! Nếu chị không tha tôi thề sẽ lên đỉnh Bù Cheo nhảy xuống vực sâu chết theo thằng cháu…
Nội thở dài rồi vẫy thím Kiên xuống. Thím lập cập đưa cả hai tay đỡ người em chồng đứng dậy, vừa khóc vừa nói:
– Chú đứng dậy đi. Mẹ con tôi không giận chú. Hai bác và mọi người cũng không giận chú đâu. Chuyện đã qua rồi. Sống ở đời ai không mắc sai lầm. Ngày xưa lúc thằng Kiên tố giác chú bớt xén hàng của Nhà nước cấp cho dân, tôi cũng giận nó lắm. Nhưng nó bảo mế đừng giận con, con làm thế cũng chỉ vì muốn tốt cho chú thôi mà. Con tôi nó là cái thằng lúc nào cũng thẳng ngay như cây quế trên đỉnh Bù Cheo. Nào, chú lên nhà uống với mọi người chén rượu mừng đi. Thằng Kiên nó sắp được trên công nhận là liệt sĩ rồi!
Mọi người cùng trở vào, quây quần ngồi bên mâm cơm. Nội nhìn bố, nheo mắt nói:
– Chuyện mẹ con thím Kiên xem như đã có một kết thúc rất tốt đẹp rồi. Ta tạm dừng ở đây đã. Bây giờ mọi người muốn hỏi ông cử nhân kinh tế về kết quả chuyến công tác cả tuần qua ở dưới huyện ra sao? Liệu tới đây đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa chúng tôi có được hưởng thêm chút ưu đãi nào của tỉnh chưa?
Nội chuyển đề tài vừa bất ngờ vừa khôn khéo làm bố Tuấn Minh không khỏi lúng túng. Rượu chưa nhấp tí nào mà mặt ông đã đỏ lựng lên. Lâu nay ông thường xuyên bị cha chỉ trích về sự chậm trễ của các ban ngành chức năng trên tỉnh trong việc lập các dự án xây dựng cơ sở vật chất cho đồng bào các dân tộc, nhất là với những vùng đặc biệt khó khăn. Câu hỏi tưởng đơn giản nhưng thật khó trả lời của cha hôm nay hẳn cũng không nằm ngoài ý đó. Nhưng thật may là trước chuyến công tác này ông đã được lãnh đạo Sở thông báo một thông tin hết sức phấn khởi. Và chuyến công tác đặc biệt cả tuần qua ông đã cùng lãnh đạo huyện tìm ra nhiều giải pháp tối ưu để chuẩn bị tiếp nhận nguồn kinh phí đầy nghĩa tình được bố trí từ nguồn ngân sách của Chính phủ cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Ông đứng dậy, rót rượu mời cha và mọi người rồi xoa xoa hai bàn tay vào nhau nói:
– Con xin lỗi bà thím, xin lỗi bố mế, xin lỗi mọi người vì sự kém cỏi của mình mà nhiều năm qua chưa giúp được gì cho đồng bào các dân tộc trong huyện nói chung và xã nhà nói riêng. Nay con xin thông báo tin này để bố mế và mọi người mừng là sắp tới, ngoài nguồn vốn lấy từ ngân sách tỉnh, đông bào miền núi, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa chúng ta sẽ được Chính phủ đầu tư nhiều dự án với nhiều lĩnh vực như điện, đường, trường, trạm. thủy lợi… nữa. Chúng ta sẽ có những con đường rộng, rải cấp phối nối liền trung tâm xã với các bản. Sẽ có những ngôi trường cao tầng thật khang trang cho con em học tập. Các em sẽ được đọc báo, đọc sách miễn phí. Sẽ có điện để chạy máy xay sát và xem truyền hình. Nhiều mặt hàng thiết yếu sẽ được Nhà nước cấp không hoặc bù giá. Đặc biệt, trong một tương lai gần, Chính phủ sẽ xây dựng ở Cửa Đặt, ngay phía trên Đền thờ cụ tổ Cầm Bá Thước của dòng họ mình một hồ chứa nước và một nhà máy thủy điện, quy mô vào loại lớn nhất nước ta…
– Thôi, thôi! Nội dơ tay ngăn lại – Mới nghe qua đã thấy sướng muốn chết rồi! Chính phủ mình thật tuyệt. Được thế thì đúng là chẳng bao lâu nữa miền núi mình cũng sẽ theo kịp miền xuôi. Nào, mọi người nâng li lên. Chúc cho bản làng chúng ta ngày càng ấm no. giàu mạnh.
Bố Tuấn Minh chưa ngồi xuống ngay mà tay vẫn cầm chén ượu, mắt hướng về phía chú Lâm nói:
– Nhưng mà cho đến giờ phút này ông Đại úy đội trưởng Đội đặc nhiệm Công an huyện vẫn chưa kể cho mọi người biết việc khám phá vụ án đội lốt người em song sinh của Hoàng Mai. Sự việc cụ thể thế nào? Năm ngoái, sau mấy ngày bỏ trốn khỏi thành phố, Hoàng Mai đã tử nạn trong một vụ đắm đò ở Thác Mạ. Vợ chồng họa sĩ Hoàng đã lên nhận lại di vật và công nhận người xấu số đúng là đứa con nuôi hư hỏng của mình. Chúng tôi cũng đã đến chia buồn cùng gia đình. Sao giờ lại có chuyện Hoàng Mai lên đây tá túc và tiếp tục làm con dấu giả để gây án?
Nội vẫy tay, ra hiệu cho bố Tuấn Minh ngồi xuống, cười cười nói:
– Yên tâm đi! Chuyện không thể tóm tắt vài lời trong lúc uống rượu được đâu. Nhưng tôi có thể cho anh biết trước điều này. Người có công đầu giúp Công an huyện phá vụ án ấy chính là con anh và thằng Tú đấy. Tối qua chúng nó đã kể tường tận cho tôi nghe. Cũng li kì và hấp dẫn lắm. Để khi về thành phố thằng Minh sẽ kể cho cả bố và mẹ cùng nghe. Còn bây giờ phải để mọi người uống rượu đã. Hà hà. không ngờ ông bà tôi lại có những đứa cháu thông minh và can đảm thế!
Hai thằng nhào lại, cùng bá lấy cổ ông. Tuấn Minh chợt thấy lòng se buồn vì sắp phải xa ông bà, xa thằng em họ, xa bao người thân và những cánh rừng quê nội…
ĐÀO HỮU PHƯƠNG
Chú thích:
– Tết Xên Mường (Tế Mường): Tết của người Thái, được tổ chức vào dịp đầu xuân, sau tết Nguyên đán.
– Hoòng hoóng: Gian thứ hai trong ngôi nhà sàn truyền thống của người Thái, rộng hơn các gian khác, phía trên đặt bàn thờ tổ tiên.