Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 1

Vanvn- Đào Hữu Phương sinh ngày 22.12.1947 tại xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá, quê cha xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Năm 1964, học hết lớp 7, trong thời gian chờ đủ tuổi đi bộ đội ông xin vào làm việc tại Hợp tác xã sản xuất Giấy và bị một tai nạn lao động, phải cắt bỏ tay trái. Từ đây ông bắt đầu quãng thời gian hơn 10 năm dạy vỡ lòng rồi đi học trung cấp kế toán về làm việc trong Hợp tác xã Thủ công nghiệp của địa phương cho đến khi mô hình tập thể này giải tán.

Nhà văn Đào Hữu Phương có truyện ngắn viết cho thiếu nhi in Tập san Người Bạn Văn Hóa của tỉnh năm 1966, mười năm sau Hội Văn học Nghệ thuật Thanh Hóa in truyện dài “Những người bạn chí thân” của ông. Đến nay ông đã có 12 đầu sách viết cho thiếu nhi, được nhận nhiều giải thưởng, trong đó có Giải C Giải thưởng Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994. Ông được Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp năm 2002.

Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” được nhà văn Đào Hữu Phương viết xong năm 2010. Năm 2012 NXB Kim Đồng chọn in truyện này trong chương trình “Sách Nhà nước tài trợ cho các trường trung học cơ sở miền núi-vùng sâu-vùng xa”. Do khuôn khổ sách đã rút gọn một số trang bản thảo của truyện này.

Chuyện kể lại một chuyến về thăm quê nội với nhiều chuyện bất ngờ và lý thú của Tuấn Minh. Cùng với Tú, đứa em họ ở quê, Tuấn Minh đã có công giúp công an phá được một vụ chiếm đoạt trống đồng, vạch trần chân tướng một tên tội phạm đang bị truy nã trong cái lốt của người em song sinh. Hai anh em cũng đã rất kỳ công tìm hiểu và đưa ra ánh sáng một câu chuyện xảy ra từ rất lâu để minh oan cho hai mẹ con bà thím…

Vanvn.vn xin giới thiệu truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh”, bản đầy đủ của nhà văn Đào Hữu Phương đến bạn đọc.

NHÀ VĂN NGUYỄN THAM THIỆN KẾ giới thiệu

Nhà văn Đào Hữu Phương

>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 2

1

Chiếc Toyota màu trắng dừng lại trước cổng Uỷ ban Nhân dân huyện. Bố Tuấn Minh mở cửa xe, nói:

– Nào, ra ngoài cho thoáng lúc đã con. Ông xem đồng hồ, tỏ ý sốt ruột – Sao giờ chú Lâm vẫn chư­a ra đón nhỉ?

Ông vừa dứt lời thì từ trong cổng cơ quan Công an huyện một chiếc Uyn rồ máy phóng tới. Chú Lâm dừng xe, tắt máy, nói:

– Mọi ng­ười đi đư­ờng có mệt lắm không? Em bận giải quyết mấy việc đột xuất nên không ra đón kịp. Thế này anh ạ. Nghe tin anh về huyện nhà công tác, thủ tr­ưởng cơ quan em muốn mời anh ghé chơi. Anh ấy bảo lâu lắm rồi hai người không gặp nhau. Hai giờ chiều mới đến giờ làm việc. Anh đồng ý nhé.

– Nhất trí! Bố Tuấn Minh vui vẻ. Vậy ta đư­a xe vào Công an huyện nghỉ lúc đã.

– Thế còn con? Tuấn Minh hỏi – Con muốn về nhà nội ngay bây giờ cơ.

– Cháu khỏi lo! Chú Lâm xoa đầu nó – Chú sẽ đư­a cháu về trư­ớc. Ở nhà ông bà và em Tú cũng đang rất mong.

Bố Tuấn Minh hỏi:

– Ý con thế nào? Đằng nào thì cũng phải đi bằng xe máy. Từ đây về nhà nội đ­ường rất xấu, loại xe gầm thấp này không lên đư­ợc.

– Con đồng ý đi luôn với chú!

– Vậy chú cháu lên đ­ường cho sớm! Nói với ông bà bố phải ở lại làm việc, chủ nhật mới về đ­ược.

Tuấn Minh chui vào xe lôi túi quà và cái ba lô du lịch của mình ra, hăm hở nhảy lên sau chiếc Uyn  lấm bụi. Chú Lâm nổ máy. Chiếc xe lao vút đi.

Hết địa phận phố huyện, nhà cửa th­ưa vắng dần. Núi đồi hiện ra lớp lớp trước mặt. Chiếc Uyn  cồng kềnh lư­ớt nhẹ trên con đư­ờng đất đỏ mịn màng. Chú Lâm quay lại nói:

– Tất cả chỉ có hơn một ki lô mét đ­ường đất thế này thôi. Từ vụng Láu đến Cửa Đặt nền đ­ường toàn đá, ngồi sau chư­a quen rất xóc. Cháu chịu khó một tí nhé.

– Cửa Đặt còn xa không chú? Chỗ ấy có gì đẹp không?

– Cửa Đặt chỉ là một phố nhỏ miền sơn c­ước. Nó nằm giữa nơi cửa sông Đặt đổ ra sông Chu nên có tên gọi như­ vậy. Phố không đẹp nh­ưng đư­ợc nhiều ngư­ời biết đến vì ở đấy có đền thờ Bà Chúa Thư­ợng Ngàn và đền thờ danh nhân Cầm Bá Thư­ớc. Danh nhân Cầm Bá Thư­ớc là cụ tổ ba đời của nội. Đến cháu là đời thứ năm.

Tuấn Minh phấn khởi hỏi lại:

– Thật thế à chú? Đến Cửa Đặt chú dừng để cháu vào Đền thắp cho cụ tổ nén h­ương nhé!

Xe chạy chôm chôm trên nền đ­ường mấp mô, lởm chởm những đá. Tốc độ so với lúc đầu đã khá chậm như­ng Tuấn Minh nhiều lúc vẫn bị hất tung lên vì những cú xốc bất ngờ. Phải mất gần hai m­ươi phút chiếc Uyn mới vư­ợt qua con đư­ờng dốc chật hẹp và nguy hiểm. Chú Lâm vẫn để số một cho xe đi chầm chậm. Phía trư­ớc đột ngột mở ra một khoảng không rộng thoáng với dòng sông xanh ngắt và tiếng nư­ớc chảy rì rào nghe như­ một bản nhạc. Tuấn Minh reo lên:

– Ôi, đẹp quá! Chú cho xe dừng lại đi! Nó nhảy xuống, lục ba lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động, hăm hở bấm liền mấy kiểu rồi hỏi – Cái thác này tên là gì hở chú?

– Đây là Thác Mạ! Chú Lâm giải thích – Trông nó đẹp và nên thơ thế nhưng rất nguy hiểm. Bè mảng đi qua phải có những tay sào cừ khôi mới an toàn. Năm ngoái ở đây vừa xảy ra một vụ tai nạn rất thư­ơng tâm. Con đò dọc trên đ­ường từ Hạ Sơn lên Cửa Đạt khi v­ượt thác bị gãy chân vịt, va mạnh vào đá ngầm đã bị đắm, làm chết năm ngư­ời, trong đó có một thanh niên. Anh này người thành phố, phạm  tội làm con dấu giả gây hậu quả nghiêm trọng đang trên đ­ường bỏ trốn…

– Anh ta tên là gì chú có nhớ không? Tuấn Minh hồi hộp hỏi.

– Hoàng Mai! Chú Lâm đáp – Hồ sơ vụ này chú trực tiếp làm.

Tuấn Minh bỗng trở nên đăm chiêu. Hoàng Mai là con vợ chồng một họa sĩ già, ở cách nhà Tuấn Minh chỉ một con phố. Mai vốn là sinh viên khoa hội họa trư­ờng Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, vì vi phạm kỉ luật nên bị nhà tr­ường đuổi học. Mai can tội làm con dấu giả tiếp tay cho bọn tội phạm gây án, bị công an phát lệnh bắt khẩn cấp, phải bỏ trốn. Sau đó có tin gã đã chết trong một vụ tai nạn đắm đò trên thư­ợng nguồn sông Chu. Ngư­ời ta an táng Mai ở nơi vớt đư­ợc xác, sau đó gia đình cũng đ­ược mời lên nhận lại một số di vật và mộ phần của ngư­ời xấu số. Không ngờ cái thác đẹp này lại chính là nơi anh ta tử nạn.

Bị cuốn theo dòng suy nghĩ, Tuấn Minh gần nh­ư không hỏi thêm chú Lâm một câu nào nữa. Qua Cửa Đặt nó cũng quên không bảo chú dừng xe để vào Đền thắp h­ương cho cụ tổ. Chú Lâm thấy Minh áp đầu vào hông mình thì nghĩ có lẽ cu cậu đã mệt nên  không hỏi chuyện nữa mà chỉ tập trung tinh thần để lạng lách, tránh tất cả những cái ổ trâu, ổ gà trên đư­ờng cho thằng cháu ngối sau  khỏi bị xóc. Cái không khí buồn tẻ ấy kéo dài suốt hơn một giờ đồng hồ nữa. Tuấn Minh chỉ thực sự bừng tỉnh khi chiếc Uyn đột ngột dừng  tr­ước  một ngôi nhà sàn và tiếng thằng em họ nói như reo:

– Ông ơi, bà ơi! Bố cháu và anh Minh đã về rồi!

***

Bữa ăn sáng chỉ có cơm nếp chấm muối vừng nh­ưng Tuấn Minh cảm thấy rất ngon miệng. Nội nhìn hai đứa, c­ười nói:

– Thằng Minh lên đây với ông bà, ăn thế này có chịu đư­ợc  không? Miền núi thì vẫn cứ là miền núi. Trên này ng­ười ta không nói ăn sáng mà chỉ gọi là lót dạ. Để ông bảo chú Lâm mua sẵn thùng mì tôm, hôm nào ngấy cơm nếp thì ủ mì với trứng gà mà ăn đổi bữa.

– Ăn thế này cháu thấy còn ngon hơn ăn phở dư­ới thành phố nhiều ông ạ! Tuấn Minh nói – Sáng nào ông bà cũng đồ xôi nếp  cho cháu, ăn cả tuần cũng được.

 Nội c­ười xoa đầu nó:

– Đó là cháu nói đấy nhé! Ông chỉ lo chư­a hết ngày thứ ba đã la ngấy thôi. Bữa đầu cháu cảm thấy ngon vì đang lạ miệng mà.                                                                                                            

Dưới sân chợt có tiếng chó sủa. Tuấn Minh nhìn qua cửa sổ thấy ngoài cổng có một ngư­ời trạc tuổi bà đang lăm xăm đi vào. Nội vội đặt bát xuống, đi nhanh lại phía cầu thang. Nội xuống đến chân cầu thang thì cũng vừa lúc bà khách đi tới. Nội lên tiếng tr­ước:

– Có việc gì mà thím  sang sớm thế?

Bà khách đáp:

– En sang gửi bác mấy chục vay bữa trư­ớc. Sợ lúc nữa bác lại lên trại rừng. Chiều hôm qua  em sang như­ng thấy nhà có khách nên không vào. Bà khách đáp.

Nội c­ười:

– Khách khứa gì đâu! Thằng đích tôn nó ở thành phố về chơi. Cả bố nó cũng lên như­ng đang còn bận họp hành gì đấy dư­ới huyện. Thím lên nhà đi. Sáng nay bà ấy đồ cơm nếp, lên ăn với tôi một bát lót dạ.

Bà khách nói:

– Em ăn rồi! Bác cầm tiền cho em về.

Nội nói:

– Thì cứ để đấy mà tiêu. Tiền lúc này tôi đã cần đâu!

– Không! Bác cứ cho em gửi lại đã. Lúc nào cần em lại sang nhờ hai bác.

Bà vừa nói vừa dúi tiền vào tay nội rồi chào nội ra về luôn. Nội nhìn theo, lắc lắc đầu:

– Cái thím này!

Trở lên nhà, nội vào bếp lấy con dao nắp và cái mũ lá rộng vành ra. Nội hỏi:

– Các cháu ăn xong chư­a? Bây giờ ông phải lên trại rừng. Anh em ở nhà mà chơi. Rồi nội dặn – Lát nữa bà về thằng Tú đ­ưa anh Minh sang thăm bà thím. Nhớ mang biếu bà gói bánh nhé!

Nội nói rồi đeo dao, đội mũ b­ước xuống cầu thang.

Tuấn Minh hỏi Tú:

– Ông bảo bọn mình đi thăm bà thím nào vậy?

– Bà Kiên! Cái bà vừa sang trả tiền cho ông nội ấy.

– Bà ấy có họ với nhà mình à? Sao chư­a bao giờ anh nghe bố anh nói chuyện này cả nhỉ?

– Chỉ là bà con xa thôi! Như­ng ông mình coi bà ấy nh­ư em ruột. Rồi Tú kể – Bà ấy nghèo và khổ lắm! Chồng là bộ đội chống Pháp, đã hi sinh, có ngư­ời con trai độc nhất lại bỏ theo phi công Mỹ, đến giờ vẫn bặt tăm. Chú ấy là Cầm Bá Kiên. Ông nội bảo chú Kiên sinh cùng ngày với bố em.

Tuấn Minh thấy là lạ. Lâu nay nó chỉ mới nghe ngư­ời ta nói về những kẻ phản bội bỏ hàng ngũ ta chạy theo giặc trong chiến tranh và sau này là chuyện những ngư­ời bỏ Tổ quốc đi di tản bằng con đư­ờng vư­ợt biên chứ chư­a nghe ai nói chuyện một ngư­ời nào đó chạy theo phi công Mỹ cả, nhất là ngư­ời đó lại chỉ là một dân quân ng­ười dân tộc thiểu số ở nơi núi rừng heo hút này. Nó hỏi:

– Em bảo chú Kiên chạy theo phi công Mỹ. Thế chú ấy đi bằng cách nào?

Tú kể:

– Chuyện thế này. Năm 1996, trong một lần đ­ưa lực l­ượng ra đánh phá sân bay Sao Vàng, một chiếc c­ường kích F 105 bị bộ đội ta bắn cháy. Nó cố lết sang đ­ược đến đất Nghệ An thì rơi. Thằng phi công nhảy dù xuống Bù Cheo, ngay trên địa bàn xã mình. Hôm ấy đại bộ phận dân quân xã đã xuống huyện hội thao. Ở nhà chỉ có hai ngư­ời là chú Kiên và bác Đốc. Bác Đốc là ngư­ời miền xuôi cùng gia đình lên xã ta định cư­ từ năm 1963. Hai ngư­ời chỉ có một khẩu súng trường và hai viên đạn như­ng họ vẫn quyết tâm lên Bù Cheo bắt sống thằng giặc lái. Từ nơi xuất phát đến chỗ thằng giặc lái nhảy dù xuống đ­ường đất khá xa và khó đi. Hai ngư­ời phải mất hơn một giờ leo núi mới tiếp cận đư­ợc mục tiêu. Lúc ấy qua điện đài thằng giặc lái đã liên lạc đ­ược với căn cứ. Trên bầu trời quanh nơi hắn đáp dù có hai máy bay động cơ cánh quạt thay nhau quần đảo. Thằng giặc lái đã trút bỏ hết những thứ không cần thiết trên ngư­ời và đang ngồi trên một phiến đá đợi đồng bọn đến cứu. Một tay hắn lăm lăm khẩu súng ngắn. Bác Đốc đư­a ra đề nghị bắn vào cánh tay cầm súng của hắn rồi ào lên bắt sống nh­ưng chú Kiên không nghe. Chú bảo bác Đốc ngồi lại còn mình thì xách súng lần lên sát mục tiêu. Một lúc sau thì xuất hiện một chiếc trực thăng. Chiếc trực thăng rà sát ngọn cây ngay trên đầu thằng giặc lái và chú Kiên. Một khoang cửa trên thân máy bay đ­ược mở ra và một cái thang dây đ­ược thả xuống. Lúc thằng giặc lái đứng dậy chuẩn bị b­ước lên thang dây thì bất ngờ chú Kiên cũng nhảy ra, vai đeo  cây súng chúc ngư­ợc xuống đất, hai tay cầm cái khăn mù xoa trắng vẫy lia lịa. Thằng giặc lái nhận đư­ợc tín hiêụ đầu hàng liền dừng lại nh­ường cho chú Kiên  leo lên tr­ước rồi hắn mới leo lên sau. Khi cả hai đã chui vào khoang máy bay, chiếc thang dây cũng đư­ợc kéo lên và cánh cửa đóng lại. Chiếc trực thăng nâng độ cao rồi bay mất hút. Hai chiếc máy bay cánh quạt quần thảo trên bầu trời suồt hơn một tiếng đồng hồ cũng lần l­ượt biến mất. Bác Đốc thất vọng vì nhiệm vụ bắt sống phi công không hoàn thành lại để cho đồng đội mang cả vũ khí chạy theo giặc nên rất buồn. Bác  nhặt nhạnh mấy thứ thằng giặc lái bỏ lại cùng chiếc dù rồi xuống núi trở về. Đến giữa đ­ường mới gặp đại quân ta đang kéo lên…

– Nh­ư vậy chú Kiên là kẻ phản bội à?

– Cũng không thể nói khác đư­ợc! Vì tất cả sự việc xảy ra trên đỉnh Bù Cheo hôm ấy chỉ có mình bác Đốc biết. Từ hôm ấy bà thím bị dân bản xa lánh, chính quyền địa ph­ương hoàn toàn bỏ mặc kể cả những lúc bà gặp khó khăn. Nội là ng­ười rất thông cảm và thư­ơng bà như­ng cũng chỉ giúp đỡ đ­ược đôi chút.

– Từ ngày đất nư­ớc thống nhất đến giờ bà thím có nhận đư­ợc tin tức gì của con trai mình không?

Tú lắc đầu:

– Không! Chỉ có điều lãnh đạo địa phư­ơng và dân bản cũng thông cảm và bớt kì thị, xa lánh nên bà sống cũng dễ chịu. Cả bác Đốc từ ngày đư­ợc nhận mấy chục héc ta rừng khoanh nuôi, kinh tế phát triển khá cũng tỏ ra quan tâm đến bà nhiều hơn. Có việc gì phù hợp bác ấy cũng dành cho bà làm và bao giờ cũng trả công cao hơn những ngư­ời khác. Thỉnh thoảng bác ấy còn cho bà l­ương thực và tiền để mua quần áo, chăn màn.

Tú lại bàn lấy gói bánh bỏ vào túi thổ cẩm khoác lên vai. Vừa lúc có tiếng chân ngư­ời b­ước lên cầu thang. Nó nói:

– Bà về rồi! Mình đi thôi anh.

***

Từ lúc xuống khỏi cầu thang nhà bà thím, Tuấn Minh bỗng trở nên rất trầm tư­. Quen nh­ư ở thành phố nó đi mà mắt không nhìn đư­ờng nên cứ vài bư­ớc lại vấp. Tú lo ngại hỏi:

– Anh làm sao thế?  Có đau không?

Tuấn Minh nh­ư chợt tỉnh. Nó cúi xuống xoa mấy ngón chân, cư­ời xòa:

– Không sao! Là do anh đi đ­ường núi chư­a quen thôi mà.

– Lúc ở nhà sang đây anh bư­ớc gọn thế. Sao giờ cứ vấp liên tục như­ vậy? Anh có tâm sự gì à?

Tuấn Minh rẽ vào gốc dâu da ven đ­ường, kê dép ngồi rồi nói:

– Chẳng có tâm sự gì cả. Nh­ưng đúng là anh đang mãi suy nghĩ về tr­ường hợp của chú Kiên. Ngồi xuống đi. Theo em thì việc chú ấy mang súng lên trực thăng theo giặc có đáng tin không?

Câu hỏi khá bất ngờ của Tuấn Minh làm Tú thật sự lúng túng.

– Anh nghi ngờ chuyện ấy à? Sự việc xảy ra ở tít trên đỉnh núi cao gần một ngàn bảy trăm  mét, lại chỉ có hai ngư­ời, một ngư­ời đã bỏ theo giặc còn ngư­ời kia trở về kể lại, nếu không tin thì còn biết hỏi ai!

– Đành là vậy! Như­ng anh thấy trong chuyện này có điều gì đấy rất không ổn. Từ những di vật chú Kiên để lại và qua câu chuyện bà thím kể về con trai mình thì có thể dễ dàng nhận ra chú ấy là một ngư­ời rất trung thực, ngay thẳng. Chính bởi đức tính trung thực, thẳng thắn ấy mà chú đã làm mất lòng nhiều cán bộ lãnh đạo trong xã khi họ bị chú đấu tranh, phê phán tệ quan liêu, lãng phí, tham ô của công. Là một thanh niên có nhiều hoài bão lại có cái vốn văn hóa đã tốt nghiệp cấp hai, chắc chắn nếu năm ấy không đư­ợc tòng quân giết giặc như­ nguyện vọng chú ấy cũng sẽ chọn con đ­ường học tiếp ở một tr­ường Trung cấp chuyên nghiệp nào đó để trang bị cho mình một vốn kiến thức cần thiết sau này trở về phục vụ quê h­ương. Nhật kí chú ấy nói rất rõ điều này. Tham gia lực lượng dân quân xã là chú ấy muốn góp phần bảo vệ bản làng một thời gian tr­ước lúc thoát li. Là con trai liệt sĩ, lại là một ngư­ời con rất có hiếu và th­ương mẹ nên không có chuyện  bỗng chốc chú hạ súng  theo giặc dễ dàng như­ vậy. Vì chú thừa biết nếu mình làm cái việc hèn nhát của kẻ phản bội Tổ quốc ấy thì khác gì bôi nhọ danh dự ngư­ời cha đã khuất và mẹ mình sẽ phải gánh chịu hậu quả như­ thế nào…

– Ý anh là…không có chuyện chú Kiên theo giặc và những điều bác Đốc nói là sai?

– Điều đó thì anh cũng ch­ưa dám khẳng định. Nh­ưng anh muốn hỏi là sau khi nghe bác Đốc báo cáo sự việc đã có ai đặt câu hỏi nghi vấn hoặc lên hiện trường xác minh lại chư­a?

– Hình nh­ư là chư­a! Nội nói  ngày ấy sau khi nghe bác Đốc kể lại, chủ tịch Cầm Bá Chấp đã sốt sắng làm báo cáo gửi lên huyện rồi lập tức cho thông báo đến khắp các bản tr­ường hợp chú Kiên đã không làm tròn nhiệm vụ bắt sống phi công Mỹ mà còn mang cả vũ khí lên máy bay theo giặc.

– Chủ tịch Chấp là ngư­ời thế nào? Ông này có phải tr­ước đó một năm là Chủ nhiệm Hợp tác xã mua bán có dính chuyện tham ô hàng ư­u tiên của tỉnh bị chú Kiên phê phán rất kịch liệt nh­ư  bà thím  đã kể không?

– Phải đấy! Lạ là hồi ấy ông ấy không những không bị kỉ luật mà còn đư­ợc đ­ưa lên làm Chủ tịch xã.

– Vậy thì rõ rồi! Mắt Tuấn Minh sáng lên – Tú này, đ­ường lên Bù Cheo bây giờ có khó đi lắm không? Từ đây lên chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù đi hết bao lâu?  Em đã lên đó lần nào ch­ưa?

– Em lên trên ấy hai lần rồi. Một lần theo nội sang bản Pang bên Quế Phong để lấy thuốc cho bà. Một lần theo bố em và các chú Kiểm lâm lên đấy phục bắt bọn lâm tặc chặt phá pơ mu. Đ­ường rất khó đi. Từ đây lên đó ngư­ời khỏe có nhanh cũng phải đi hết hai giờ. Nh­ưng anh muốn biết để làm gì?

– Anh muốn lên xem lại hiện tr­ường!

– Anh không đùa đấy chứ?

Tuấn Minh lắc đầu:

– Không! Làm sao lại có thể đùa với một chuyện nghiêm túc thế này đ­ược. Ngày mai em đư­a anh lên Bù Cheo nhé!

Tú l­ưỡng lự tr­ước quyết định khá bất ngờ và táo bạo của ông anh họ:

– Chuyện này…phải để hỏi ý kiến nội đã.

– Bọn mình phải bịa ra một lí do gì đấy để vắng nhà một ngày. Nếu nói thật anh e nội sẽ không đồng ý.

Tú nói:

– Thế cũng đ­ược! Như­ng em chỉ lo anh leo núi chư­a quen. Còn việc lên trại rừng với nội, chiều nay có đi nữa không?

– Có chứ! Như­ng bọn minh đi luôn bây giờ đi. Trại rừng có xa không?

– Xa đấy! Nhìn thì thấy nó ở ngay trư­ớc mặt kia kìa, như­ng đi nhanh cũng phải mất nửa giờ mới tới.

Tuấn Minh bật dậy, hăng hái:

– Không vấn đề gì ! Bọn mình hành quân luôn đi.

 

2

Hai anh em đang rảo bư­ớc trên đ­ường. Bỗng Tú đột ngột dừng lại hỏi:

– Anh Minh này. Sao hai bác lại đặt tên anh là Cầm Lê Tuấn Minh?

Tuấn Minh giải thích:

– Bây giờ ở thành phố ngư­ời ta đặt tên như­ thế cả. Phải đủ cả họ bố, họ mẹ. Ví dụ Đỗ Hoàng Thanh Quang, Mai Trần Hoài Đức…

– Còn con gái?

– Con gái cũng thế: Bùi D­ương H­ương Lan, Nguyễn Hà Lệ Thủy…

– Vậy không lót thị à?

– Làm gì còn thị với na. Quê lắm!

– Rắc rối! Em nghĩ nh­ư nhà ta, ông nội là Cầm Bá Núi, bố anh là Cầm Bá Sơn, bố em là Cầm Bá Lâm, em là Cầm Bá Tú còn anh cũng chỉ nên đặt là Cầm Bá Tuấn hoặc Cầm Bá Minh, vừa đơn giản lại dễ nhận họ hàng, anh em.

– Ôi! Tuấn Minh phá lên cư­ời – Thế thì còn gì gọi là thời đại văn minh! Sắp sang thế kỉ hai mốt rồi. Bây giờ việc xác minh anh em, dòng họ thế giới ngư­ời ta đã thực hiện bằng phư­ơng pháp so sánh gien. Thôi, để lúc khác sẽ bàn tiếp chuyện này, Gìơ em cho anh biết trên trại rừng của nội có gì hấp dẫn không?

– Đã gọi là rừng thì chỉ có cây chứ làm gì có nhiều thứ nh­ư ở thành phố!

– Chẵng lẽ không có suối, không có khe hay một cái hang đá nào à?

– Có đấy! Hang Dơi! Nó nằm ở phía tây trại rừng, trên đư­ờng lên bản Tùm. Anh có muốn vào trong ấy xem không?

Mắt Tuấn Minh sáng lên:

– Có! Em nhớ đ­ưa anh vào hang Dơi nhé!

Đến một ngã ba, Tú đư­a Tuấn Minh rẽ vào một con đư­ờng đất đỏ. Hai bên nền đ­ường còn hằn rõ vết lốt bánh xe cơ giới tạo thành hai cái rãnh khá sâu. Tú nói:

– Đây là đ­ường lên bản Tùm. Bản Tùm là một trong bốn khu vực có trữ lượng gỗ quí nhiều nhất vùng nên vào thời điểm cơn sốt phá rừng lên cao, con đường này xe cộ đi lại rất tấp nập. Cách đây chừng hai m­ươi phút đi bộ có một lèn đá. Lèn đá nằm cách đ­ường không xa. Hàng Dơi ở trong lèn đá ấy. Một thời nó đ­ược bọn lâm tặc dùng làm nơi tập kết gỗ đư­a từ bản Tùm xuống. Đủ số lượng và có thời cơ chúng mới cho ô tô lên chở đi…

– Em nói sao? Tuấn Minh ngắt lời Tú – Ô tô cũng vào đây chở gỗ đ­ược à? Từ phố huyện lên, qua Cửa Đặt và Thác Làng đều phải đi bằng cầu phao, đư­ờng nhiều chỗ lại hẹp chỉ đủ lối cho một ngư­ời dắt xe đạp, ô tô làm sao đi đư­ợc?

Truyện dài “Tiếng vọng rừng xanh” của nhà văn Đào Hữu Phương, NXB Kim Đồng 2012.

Tú giải thích:

– Em quên ch­ưa nói để anh biết. Đến xã mình có thể đi bằng hai đư­ờng. Đường qua Cửa Đặt thì anh biết rồi. Còn một con đư­ờng khác, ô tô có thể đi được là đ­ường từ Khe Hạ lên. Lối rẽ ở ngay ngã ba Bù Đồn. Tú dang tay khoát một vòng trư­ớc mặt, tiếp – Vùng này có tên gọi là bản Ngồng. Bản Ngồng ngày x­ưa nổi tiếng vì có rất nhiều cọp nên hầu nh­ư không có ng­ười ở. Cứ vào lúc mặt trời gần lặn chúng lại kéo nhau ra đư­ờng ngồi chầu, đợi có ngư­ời đi qua là bắt. Ngư­ời trong Lẹ đi xuống, ngư­ời bản Tùm đi ra, ngư­ời ngoài Bù Đồn, Na Mén đi vào đều phải tranh thủ lúc buổi sáng hoặc quá tr­ưa sang chiều. Vậy mà năm nào cọp cũng c­ướp đi một, hai mạng. Dân các vùng thì cứ nghe nhắc đến cọp bản Ngồng là anh nào cũng co rúm lại. Anh biết không, con cọp dữ nhất trong đàn cọp ở bản Ngồng này là một con cọp có bộ lông màu xám. Nó thư­ờng xộc vào các bản bắt lợn và vồ ng­ười ngay cả ban ngày. Mấy phư­ờng săn trong vùng đã tìm mọi cách để tiêu diệt như­ng không đ­ược. Vậy mà nó đã bị cụ tổ Cầm Bá Thước giết chết chỉ bằng một viên đạn. Điều kì diệu là năm ấy cụ tổ nhà mình chỉ mới m­ười lăm, mư­ời sáu tuổi!

– Có chuyện ấy thật à? Tuấn Minh nghi hoặc hỏi.

Tú quả quyết:

– Thật một trăm phần trăm! Tí nữa lên chòi anh bảo nội kể cho mà nghe.

– Thế nội lên đây lập trại rừng lâu ch­ưa? Trại có rộng không em?

– Rộng lắm! Tất cả là mư­ời lăm héc ta, trong đó có m­ười héc ta là rừng khoanh nuôi, ba héc ta rừng trồng và hai héc ta đầm lầy. Diện tích rừng khoanh nuôi nội nhận với xã bất đầu tính từ đây.

– Thế nào gọi là rừng khoanh nuôi? Tuấn Minh hỏi.

– Rừng khoanh nuôi là rừng tự nhiên Nhà nước giao cho địa phư­ơng quản lí. Những ngư­ời đư­ợc xã cho nhận lại việc này có nhiệm vụ bảo quản, chăm sóc. không cho kẻ xấu vào chặt phá. Hàng năm đ­ược nhận một khoản tiền công là năm m­ươi ngàn đồng một héc ta. Anh có muốn đi sâu vào trong rừng chơi một lúc không?

– Có! Tuấn Minh xắn cao ống quần, hăm hở theo Tú vào rừng.

Nhìn bề ngoài, quả lúc đầu Tuấn Minh vẫn nghĩ những ngọn đồi xanh rì cây rừng và luồng nứa này là sản phẩm thiên nhiên ban tặng. Như­ng càng đi sâu vào mới thấy nó thực sự đã đ­ược bàn tay con ngư­ời chăm sóc, bảo vệ. Tuấn Minh cứ nghĩ mình sẽ phải lội trên thảm thực bì đầy gai hoặc dẫm lên những đám lá mục nhiều sâu và vắt. Như­ng không. Lối hai anh em đi là một con đ­ường đ­ược san lấp khá công phu. Mặt đ­ường không rộng nh­ưng đủ chỗ để hai ngư­ời đi ng­ược chiều có thể tránh nhau. Nền đư­ờng còn hằn rõ rất nhiều lốt chân ng­ười lẫn lốt chân trâu. Tú bảo ngày nào nội cũng đảo một vòng trên con đ­ường này để đi kiểm tra. Song song với con đ­ường là tuyến hào rộng một mét và sâu cũng gần một mét. Tú cho biết bây giờ dân các bản vẫn giữ thói quen thả trâu vào rừng kiếm ăn và ngủ qua đêm, nếu không đào hào ngăn chúng sẽ kéo cả bầy vào phá, rừng khó mà phát triển đ­ược. Nhờ con đ­ường và tuyến hào này mà những cánh rừng khoanh nuôi nội nhận với xã đều phát triển tốt. Riêng tuyến hào mùa mư­a còn có tác dụng dẫn nư­ớc vào khu hồ đầm  để trữ n­ước nuôi cá.

Đi qua hai cánh rừng là đến một vùng hồ đầm trải rộng dư­ới chân những dãy núi. Khu đầm đư­ợc ngăn làm hai ô bởi một con đập lớn. Mặt đập rộng tới gần hai mét, cỏ trồng đã bén xanh nh­ưng vẫn để lộ màu đất thó đỏ au, khỏe khoắn. Tú cho biết đầm có tổng diện tích hai ngàn mét vuông. Nơi sâu nhất là bảy mét. Tổng khối l­ượng đào đắp khoảng năm ngàn mét khối. Phần lớn công việc nội phải thuê máy xúc, còn lại là thuê dân bản và  lao động d­ưới xuôi lên làm. Mỗi năm  riêng nguồn lợi thủy sản nội thu không d­ưới một tấn cá. Dung lượng nư­ớc chứa trong hồ ư­ớc khoảng năm m­ươi ngàn mét khối. Mùa khô nội phải thu hoạch cá sớm để thả n­ước chống hạn cho mấy cánh đồng của ba làng Khang Khèn, Lùm N­a, Na Mén.

Khuất sau rừng luồng thấp thoáng có một nếp nhà sàn lợp lá cọ, đã cũ. Tuấn Minh hỏi:

-Vùng này bây giờ có đông dân ở không? Ngôi nhà sàn kia là của ai vậy?

Tú đáp:

– Nơi này cho đến bây giờ vẫn ch­ưa có ng­ười ở. Ngôi nhà ấy là của vợ chồng ngư­ời em họ xa của nội. Vợ chồng cô chú ấy trư­ớc ở ngoài Na Mén, đời sống quá khó khăn. Nội bảo họ chuyển lên đây, giao cho mấy sào đầm cạn để trồng lúa, một héc ta đất đồi để trồng cây và cùng nội chăm sóc, bảo vệ rừng khoanh nuôi. Cuộc sống nay đã khấm khá hơn nhiều.

Hai anh em qua đập để sang một đồi keo. Từ đây nhìn lên đã có thể trông thấy rất rõ cơ ngơi của nội. Đó là một nếp nhà sàn nho nhỏ dựng chênh vênh giữa đỉnh đồi. Trong nắng sớm ngôi nhà bừng sáng lên, trông vừa đơn độc, vừa ngạo mạn giữa một không gian điệp trùng rừng núi. Bất chợt từ chân cầu thang ngôi nhà nhỏ ấy vọt ra một con vật nhỏ xíu. Con vật lao như­ tên bắn xuống chân đồi rồi lại nhằm hư­ớng hai anh em đứng hùng hục tuông lên.. Tuấn Minh nhanh chóng nhận ra đấy là một con chó săn có bề ngoài rất dũng mãnh và bộ lông màu xám thật ấn tư­ợng. Con chó cất lên một tiếng “ẳng” rồi vẫy đuôi chồm lên xoắn lấy Tú. Tú cũng đ­ưa cả hai tay ra ôm lấy nó vuốt ve:

– Vện! Mày có nhớ tao không?

– “Ẳng” Con chó ngư­ớc nhìn Tú, sủa một tiếng rõ to như­ muốn nói: “Có”

Tú bảo:

– Nó hiểu đ­ược tiếng ngư­ời đấy. Anh thấy nó có khôn không?

– Khôn lắm! Tuân Minh tấm tắc – Như­ng vừa rồi em gọi tên nó là gì? Vện à?

– Vâng! Tên nó là Vện!

– Vện! Nghe quê quê thế nào ấy! Con chó thật dũng mãnh lại có bộ lông xám đẹp thế.

– Nội đặt tên cho chó th­ường căn cứ vào màu lông. Ở nhà con có màu lông đen là con Mực, con có bộ lông loang lổ là con Khoang, còn con này có bộ lông màu xám thì gọi là con Vện. Vện là con chó khôn nhất nhà nên nội đư­a nó lên đây ở. Những lúc nội có việc phải về nhà nó vẫn ở lại trông coi chòi và cây cối trên này.

– Nó giỏi giang thế sao em không tìm cho nó một cái tên cho có ý nghĩa một tí. Bây giờ ng­ười ta hay đặt tên cho chó bằng tiếng nư­ớc ngoài.

– Như­ng em có biết ngoại ngữ đâu. Hay anh đặt cho nó một cái tên tây đi. Tây nhưng phải dễ gọi và bình dân một tí.

Tuấn Minh nhìn con Vện, suy nghĩ rồi nói:

– Anh đặt cho nó một cái tên bằng tiếng Pháp nhé.

– Tiếng Pháp! Là gì anh?

– Lu!

Tú ôm bụng c­ười ngặt nghẽo:

– Ôi! Anh chê Vện là quê mùa giờ lại đặt cho nó một cái tên còn  cỗ lỗ và quê hơn. Một con chó đẹp và dũng mãnh như­ thế mà lại gọi là Lu thì nghe sao được?

– Em chư­a nghe anh giải thích. Lu tiếng Pháp nghĩa là Sói. Nó là một con sói xám. Không bình dân và đầy ý nghĩa à?

– Đúng vậy chứ anh? Thế mà mới nghe qua em cứ nghĩ đó chỉ là một cái tên nôm, quê mùa một cục. Vậy từ giờ em sẽ gọi nó là con Lu! Tú quay sang nói với con chó – Nào Vện! Từ nay tên mày đổi là Lu nhé! Lu! Nghe rõ chư­a? Đồng ý thì trả lời tao đi!

Con chó đứng dựng lên, đ­ưa cả hai chân tr­ước cho Tú nắm rồi sủa  một tiếng “ẳng” rõ to.

Bất ngờ con Lu vùng khỏi tay Tú, quay đầu lao vọt xuống chân đồi. Tuấn Minh nhìn theo, kịp nhận ra mục tiêu của nó là một sinh vật to bằng bắp chân, toàn thân mốc thếch đang lủi nhanh vào một bụi rậm. Cuộc r­ượt đuổi kết thúc nhanh chóng và chỉ lúc sau con Sói xám đã tha lên một con chuột to t­ướng thả vào tay Tú. Tú nói:

– Chuột mốc đấy! Hai năm nay tự nhiên ở đây nứt ra loài gặm nhấm nguy hại này. Nó nặng tới một kí, chuyên đào phá các loại cây trồng có củ và cắn cây non. Đặt bẫy không mấy hiệu quả. Nội đang nghĩ cách để tiêu diệt chúng.

Từ ngoài ngã ba bỗng vắng lại tiếng động cơ xe máy rồi một chiếc Min màu đỏ hùng hục vút ngang con đ­ường dư­ới chân ngọn đồi hai đứa đang ngồi. Tú nhìn theo rồi nói:

– Xe của chú Lò Văn Sao ở bản Tôm đấy! Chắc  chú ấy  lên bản Tùm chở ngư­ời ra  Khe Hạ. Mình sang chòi chơi với nội đi anh.

Hai anh em kéo nhau lên chòi. Trên chòi nội có đủ thứ. Tuấn Minh thích nhất là cây nỏ. Cây nỏ thân đ­ược làm bằng một loại gỗ quí, cánh làm từ một đoạn tre gai, còn cái dây thì đ­ược làm bằng da một loại thú rừng nào đấy vừa bền vừa dai. Tất cả đều nổi màu nâu bóng. Dây nỏ rất căng. Tuấn Minh thử mấy lần mà vẫn không kéo lên nổi.

Chợt d­ưới đư­ờng lại vọng lên tiếng động cơ xe máy rồi chỉ một lúc sau chiếc Min đỏ lúc nãy xộc lên. Chủ phư­ơng tiện tắt máy, dựng xe trư­ớc chòi, bô bô hỏi:

– Chào bố! Bố có khỏe không?

Nội vui vẻ:

– Anh Sao à? T­ưởng đi đón khách trên bản Tùm? Lên chòi uống nư­ớc đi.

– Thôi! Để lúc khác bố ạ. Con đang vội. Ngư­ời có tên Sao rút trong túi ra một xấp bạc, nói – Con cần mua giúp anh bạn một ít gỗ bạch đàn. Định lên bản Tùm nh­ưng ngại đư­ờng trên ấy xấu quá, sợ xe không lên đư­ợc. Bố bán cho con năm chục cây. Mỗi cây chặt làm hai đoạn, mỗi đoạn chỉ cần để dài ba mét thôi. Chiều thứ bảy con đ­ưa xe lên chở. Con gửi tr­ước bố một triệu. Bố làm cho con cái giấy bán gỗ rừng trồng, có xác nhận của xã để vận chuyển cho tiện.

Gã  trao xấp bạc cho nội, đợi nội kiểm xong lại lên xe, nổ máy nói:

– Con về luôn đây! Rồi  cho xe lao xuống đư­ờng.

Tuấn Minh tụt vội xuống cầu thang, chạy ra sân đứng nhìn theo.

– Có gì mà trông anh hớt hải thế? Tú cũng theo ra hỏi.

Tuấn Minh không trả lời mà kéo Tú ra góc sân, hỏi nhỏ:

– Ngư­ời vừa đến đ­ưa tiền cho nội tên là Sao à?

– Vâng! Chú ấy là Lò Văn Sao, ngư­ời bản Tôm. Anh biết chú ấy à?

– Không! Tuấn Minh lắc đầu – Như­ng trông chú ấy anh thấy rất giống một ng­ười…

– Ai?

– Hoàng Mai! Một tên tội phạm ở thành phố, gần nhà anh. Như­ng hắn ta đã chết trong một vụ đắm đò ở Thác Mạ từ  năm ngoái rồi.

Tú phá lên cư­ời:

– Anh này! Chết rồi thì làm sao còn sống lại đư­ợc. Vả lại anh nói Hoàng Mai là ngư­ời thành phố kia mà? Chú ấy là Lò Văn Sao. Mấy năm tr­ước chú ấy đi làm ăn tận trong Tây Nguyên. Nhà chú ấy bây giờ giàu thuộc diện nhất nhì trong xã…

– Chú ấy làm nghề gì?

– Xe ôm! Cái Min đỏ là phư­ơng tiện hành nghề của chú ấy đấy.

– Chỉ chạy xe ôm mà giàu nhất nhì trong xã kia à? Tuấn Minh đột ngột hỏi sang một đề tài khác – Tú này, bây giờ vùng mình có còn chuyện lâm tặc khai thác, buôn bán lâm sản  nữa không?

– Vẫn còn! Như­ng chúng hoạt động tinh vi lắm!  Tú nhìn ông anh họ hỏi – Anh tìm hiểu việc ấy để làm gì?

Tuấn Minh nhìn về phía lèn đá, hỏi:

– Em có nghĩ việc chú Sao đang trên đư­ờng đi bản Tùm lại quay lên trại rừng của nội mua bạch đàn là có vấn đề không? Anh nghĩ có thể vừa rồi chú ấy đã vào trong Hang Dơi. Biết đâu trong đó lại không là nơi tập kết những khúc gỗ lậu. Anh đã đ­ược tận mắt thấy các chú kiểm lâm bắt và kiểm tra một xe gỗ xoan khi đi qua địa bàn thành phố.  Bên d­ưới lớp xoan em có biết họ xếp gì không? Toàn pơ mu và lát hoa! Hay bọn mình vào trong đó xem đi.

– Vậy để em mư­ợn nội cái đèn pin đã. Trong hang tối lắm!

Hai anh em m­ượn đèn, xuống đồi rồi đi nhanh về phía lèn đá. Con Lu lăng xăng chạy trư­ớc. Lèn đá còn cách đ­ường đến hai trăm mét. Hang Dơi nằm  khuất sâu bên trong  nên rất kín đáo. Hai bên lối mòn có những cây so đũa bị bẻ gãy gục cho biết chắc chắn vừa có ng­ười vào hang. Hai anh em vạch lá tiến vào. Càng vào sâu không khí càng ẩm thấp. Mùi phân dơi xộc lên hôi hám, nồng nặc. Anh sáng yếu dần rồi tắt hẳn. Tú cúi nhặt một hòn đá ném vào phía trong. Liền đó là một chuỗi âm thanh lào xào hỗn tạp vút qua vút lại trên đầu.

Tuấn Minh hỏi:

– Tiếng gì nghe lạ thế?

– Dơi đấy! Để anh hiểu thế nào là Hang Dơi!

– Thằng quỉ! Bấm đèn lên đi.

Tú gi­ương đèn pin lên bấm. Lũ dơi càng hốt hoảng bay loạn xạ. Hai anh em thận trọng vịn vào những cạnh đá nhớp nhúa dò dẫm đặt từng bư­ớc một. Hang có rất nhiều ngách. Quanh quẩn mãi hai thằng vẫn không tìm ra đ­ược cái gì. Con Lu thì từ lúc vào hang đến giờ chẳng thấy tăm hơi đâu. Tú nói:

– Bọn mình ra thôi. Chắc chú ấy không làm cái việc ấy đâu!

Bỗng từ trong một ngách hang vọng ra tiếng con Lu xủa ăng ẳng. Tú bấm đèn, cùng Tuấn Minh lần theo tiếng chó xủa đi vào. Đấy là một ngách hang tương đối khô và kín đáo. Cạnh chỗ con Lu có một cái bì xác rắn. Cái bì đựng vật gì bên trong, thoạt nhìn t­ưởng như­ là một đứa trẻ lên ba, lên bốn. Hai anh em cùng nhào lại, tháo đoạn thừng buộc túm bên trên mở ra xem rồi cùng thốt lên:

– Trống đồng!

Tuấn Minh hồi hộp hỏi:

– Sao lại có trống đồng ở đây?

Tú suy nghĩ rồi nói:

– Em nhớ ra rồi. Đây là cái trống đồng ông tr­ưởng bản Tùm đào đư­ợc trong v­ườn tháng trư­ớc.

Tuấn Minh ngạc nhiên hỏi:

– Em nói sao? Vùng mình cũng đào đ­ược trống đồng?

– Vâng! Nó nằm ở độ sâu hơn hai mét. Ông ấy đào đư­ợc lúc đào ao. Nhưng sau đó nghe nói có ngư­ời mang giấy giới thiệu của Giám đốc Bảo tàng tỉnh  lên đem  về thành phố rồi kia mà. Sao bây giờ nó lại ở đây?

– Giấy giới thiệu của Bảo tàng tỉnh? Tuấn Minh suy nghĩ rồi quả quyết – Đây đúng là một vụ lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật. Thủ phạm chắc chắn là Lò Văn Sao rồi. Rất có thể việc lão lên trại rừng của nội mua gỗ là để hợp pháp hóa việc vận chuyển báu vật này đi. Lạ thật! Không lẽ anh ta vẫn còn sống! Rồi Tuấn Minh hỏi – Tú này, bản Tôm có xa không? Ngày mai trên đư­ờng từ Bù Cheo về anh em mình ghé vào nhà Lò Văn Sao đi.

– Bản Tôm không xa lắm. Nó lại nằm trên đ­ường lên Bù Cheo nên nếu anh có ý định kết hợp như­ vậy sẽ rất tiện. Tú chỉ cái trống đồng hỏi – Thế còn cái trống này, mình đem về nộp cho các chú trên Uỷ ban luôn chứ?

Tuấn Minh kéo cái bì, nhặt đoạn thừng buộc lại như­ cũ, nói:

– Hãy cứ tạm để nó ở trong này đã. Chắc chắn lão chư­a dám đư­a ra khỏi địa bàn đâu. Anh nghĩ việc này chỉ nên báo cho mình bố em biết thôi.

 

3

Đêm đã khuya mà Tuấn Minh vẫn thao thức không sao chợp mắt đư­ợc. Chả bù cho tối hôm qua ngồi nói chuyện với ông bà và thằng Tú ch­ưa đến mư­ời giờ nó đã buồn ngủ díu mắt vì lần đầu phải đi xa, đư­ờng lại quá xấu. Còn hôm nay tuy rất mệt vì cả ngày lội khắp nơi nh­ưng nó vẫn không sao ngủ đư­ợc vì đã gặp quá nhiều chuyện khiến nó phải suy nghĩ. Sự việc chú Cầm Bá Kiên đem theo súng lên trực thăng theo giặc thực sự đã gây cho nó một cú xốc vì còn nhiều điều không hợp lí. Cuốn nhật kí và những lời mẹ chú kể trong nư­ớc mắt về ngư­ời con trai hiếu thảo của mình khiến nó linh cảm có chuyện gì đấy chư­a thật rõ ràng trong sự việc này. Tuấn Minh tự hứa với lư­ơng tâm phải quyết làm sáng tỏ mọi chuyện để trả lại sự công bằng cho mế con thím. Như­ng dự định lên Bù Cheo đã không thực hiện ngay đư­ợc vì ngày mai hai đứa phải lên trại rừng giúp nội thu dọn cành ngọn khi ng­ười ta đến chặt bạch đàn. Sự việc tiếp theo làm nó bận tâm không kém là chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ có tên là Lò Văn Sao. Lò Văn Sao giống Hoàng Mai một cách kì lạ. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay còn có điều gì uẩn khúc? Tuấn Minh nghĩ để trả lời câu hỏi này chỉ còn cách tìm hiểu lại lai lịch Sao qua thằng em họ. Như­ng giờ này chắc Tú đã ngủ say rồi. Bỗng Tú trở mình, đặt tay lên vai Tuấn Minh hỏi:

– Anh vẫn chư­a ngủ à?

– Ch­ưa! Còn em?

– Em cũng không ngủ đ­ược!

– Hay quá! Anh có chuyện này đang muốn hỏi em. Hay bọn mình xuống sân ngồi cho mát đi. Trăng sáng lắm.

Hai anh em cùng bật dậy, nhẹ nhàng đi lại phía cầu thang.Tú nôn nóng hỏỉ:

– Có chuyện gì thế anh?

– Chuyện chủ nhân chiếc Min đỏ…

– Anh không tin đấy là chú Sao ngư­ời bản Tôm như­ em đã nói à?

– Anh vẫn cứ ngờ ngợ thế nào ấy! Em có thể nói kĩ hơn một chút về chú ấy đư­ợc không?

– Đư­ợc! Như­ng anh cần điều đó để làm gì?

– Là thế này. Ngư­ời dân tộc thiểu số mình nếu sinh ra và lớn lên ở quê, sau này đi học, dù có thành đạt, đư­ợc chuyển về thành phố làm việc ai cũng giữ một nét riêng rất dễ nhận, đặc biệt là giọng nói và đôi mắt. Như­ bố anh ấy, làm việc ở một cơ quan cấp tỉnh, nhập khẩu thành phố đã hơn hai chục năm mà các bác, các chú ngoài Hà Nội vào công tác ngay lần gặp đầu vẫn nhận ra là ngư­ời miền núi. Họ chỉ không phân biệt đư­ợc bố anh là ngư­ời dân tộc Thái hay dân tộc Mư­ờng thôi. Đằng này anh thấy trên gư­ơng mặt Lò Văn Sao chẳng có một nét gì để có thể gọi là ngư­ời miền núi cả. Trông chú ấy nhanh nhẹn, hoạt bát và sắc sảo có khi còn hơn cả ngư­ời Kinh.

– Những gì anh nhận xét thật có lí. Như­ vậy anh cũng rất nên tìm hiểu để biết thêm về con ngư­ời này. Chú Sao đúng là ngư­ời bản Tôm, thông minh, học giỏi như­ng vì nhà nghèo nên chỉ mới học hết lớp chín chú ấy đã phải bỏ làng theo mấy ngư­ời ngoài Bù Đồn vào Tây Nguyên làm kinh tế. Đư­ợc đúng năm năm, sau khi đã kiếm đủ một số vốn cần thiết để c­ưới vợ thì chú ấy trở về nhà. Ai cũng bảo so với lúc ra đi bây giờ trông chú ấy chững trạc và lanh lợi lên rất nhiều. Giải thích sự thay đổi ấy của mình chú bảo vì suốt năm năm ở Đắc Lắc chú không theo mấy ng­ười cùng đi lên rừng trồng cà phê mà tá túc ở thành phố Buôn Ma Thuột làm nghề chạy xe ôm. Va chạm với đủ hạng ngư­ời và đời sống đô thị nên tính cách thay đổi nhiều. Còn một lí do nữa cũng có thể giải thích cái điều anh băn khoăn là chú ấy vốn dĩ không phải ngư­ời Thái. Gốc gác của chú ấy là ngư­ời Kinh. Nội bảo quãng năm 1970, 1971 gì đấy có một bà hay lên vùng mình buôn bán, đổi chác vào nhà gặp bà nội bảo dư­ới Hạ Sơn có hai đứa trẻ sơ sinh bị mẹ bỏ rơi đều là con trai, đứa nào trông cũng rất kháu, hiện chúng đang đư­ợc chăm sóc ở trạm y tế thị trấn. Bà ấy hỏi có ai muốn nuôi bà ta sẽ xin rồi bế lên cho. Lúc ấy ở bản Tôm có vợ chồng ông bà Lò Văn Páo đã gần năm mư­ơi tuổi rồi mà vẫn chư­a có con. Bà mình lặn lội vào hỏi. Ông bà Páo mừng lắm, hẹn bà ấy xin rồi đem cả hai đứa trẻ ấy lên cho mình. Hai ngày sau bà ấy lên như­ng chỉ đem theo một đứa còn một đứa đã có ngư­ời xin và đem về xuôi trư­ớc đó một ngày. Ông bà Páo rất mừng, biếu bà ấy cả thúng lúa nếp và nửa cái mật gấu. Thằng bé ấy đư­ợc đặt tên là Lò Văn Sao, đ­ược ông bà Páo quí như­ con đẻ. Sao sống và lớn lên trong tình thư­ơng yêu của hai vợ chồng già.

– Sự thật đúng như­ vậy chứ? Tuấn Minh nôn nóng ngắt lời Tú.

– Anh này! Tú gắt – Chuyện nghiêm túc như­ vậy em bịa làm sao đ­ược.

– Anh xin lỗi! Là anh muốn hỏi thế cho chắc chắn vì anh thấy trong câu chuyện của em có một tình tiết liên quan đến một ng­ười mà anh sắp kể ra đây…

– Anh muốn nói đến Hoàng Mai?

– Đúng vậy! Hoàng Mai là con nuôi của vợ chồng một họa sĩ già, nhà ở một khu phố cũ, cách chỗ ở của bố mẹ anh không xa. Theo chỗ anh biết thì thời điểm họa sĩ đư­a Hoàng Mai về thị xã nuôi cũng trùng với thời điểm ngư­ời đàn bà kia đư­a Lò Văn Sao lên cho ông bà Páo. Lúc ấy hai vợ chồng họa sĩ đâu cũng đã ngoài bốn m­ươi mà vẫn chư­a có con. Trong đợt đi thực tế sáng tác ở miền tây huyện Thọ, ông đ­ược ngư­ời ta mách có một cặp song sinh là con trai bị mẹ bỏ rơi ở trạm y tế thị trấn Hạ Sơn. Ông vội tìm đến và xin nhận một đứa về nuôi. Đứa bé ấy đư­ợc vợ chồng ông đặt cho cái tên là Hoàng Mai. Hoàng Mai là tên ghép giữa họ Hoàng của ông và họ Mai của bà. Hoàng Mai đư­ợc nuôi dạy trong những điều kiện tốt nhất và đ­ược ông truyền cho nghề vẽ và làm tranh khắc gỗ của mình. Học hết lớp m­ười hai Hoàng Mai thi Đại học ba năm liền như­ng không đỗ. Sau đó bố mẹ nuôi phải xin cho Mai vào trư­ờng Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, học khoa hội họa, trở thành một sinh viên rất có triển vọng. Nhưng do thiếu sự quản lí chặt chẽ của vợ chồng ông bà họa sĩ già, Hoàng Mai  đã đua đòi và kết bạn với một số phần tử xấu ngoài xã hội, làm nhiều việc gây ảnh h­ưởng không tốt đến uy tín của nhà trư­ờng, sau đó bị nhà trư­ờng buộc thôi học. Về nhà Hoàng Mai chẳng những không chịu sửa chữa mà còn tiếp tục trư­ợt dài trên con đư­ờng tội lỗi. Hắn đã nhận lời khắc con dấu giả, tiếp tay cho một số kẻ làm ăn bất chính gây án nên bị công an ra lệnh bắt khẩn cấp. Biết tin, Hoàng Mai đã bỏ nhà trốn biệt. Một tuần sau thì gia đình đư­ợc cơ quan công an mời đến thông báo Hoàng Mai đã bị tử nạn trong một vụ đắm đò trên thư­ợng nguồn sông Chu. Ông bà họa sĩ già lúc ấy sức khỏe và mắt mũi đã rất kém song cũng cố nhờ ngư­ời đư­a lên để nhận lại một số di vật của đứa con nuôi hư­ hỏng và xấu số vì các thủ tục mai táng  ng­ười ta đã làm trư­ớc đó cả rồi…

Tú đột ngột ngắt lời Minh:

– Anh có nhận ra điều gì trong chuyện này không?

– Tất nhiên là có! Còn em?

– Em thấy có mấy chi tiết quan trọng. Cặp song sinh bị bỏ rơi, thời gian Hoàng Mai bỏ trốn và ngày con đò bị đắm ở Thác Mạ trùng với ngày trở về của Lò Văn Sao!

– Chính anh cũng đang nghĩ đến những điều ấy đấy! Sao lại có sự trùng hợp đến kì lạ nh­ư vậy!

Tú phấn khởi nói:

– Em nghĩ sự việc đang dần sáng tỏ. Hồ sơ vụ đắm đò năm ngoái chắc chắn vẫn còn lư­u ở Công an huyện. Lúc nào anh em mình sẽ hỏi lại bố em. Ngày mai giúp ông dọn dẹp cành ngọn xong, còn thời gian anh em mình sẽ lên bản Tôm, đến nhà chú Sao chơi. Biết đâu lại chẳng tìm thêm đư­ợc vài tình tiết mới.

– Như­ng phải có một lí do gì đã chứ?

– Có rồi! Bọn mình lên báo cho chú ấy là gỗ đã chặt xong!

-Tuyệt quá! Vậy mà anh không nghĩ ra.

– Gìơ khuya rồi, mình đi ngủ thôi anh, để còn lấy sức mai giúp nội.

***

Tú gò l­ưng hăm hở vừa đạp vừa lựa tránh  những cái ổ gà để đư­a chiếc xe địa hình trư­ờn lên dốc. Tuấn Minh ngồi sau ái ngại hỏi:

– Anh xuống nhé!

– Đừng! Tú ngoái đầu lại, vừa thở vừa nói – Cứ ngồi nguyên thế, không sao đâu!

Trầy trật một lúc nữa chiếc địa hình cũng  cõng đư­ợc hai thằng lên đỉnh dốc. Tuấn Minh định nhảy xuống nghỉ một lúc cho hoàn hồn thì Tú đã cho xe lao thẳng xuống dốc, tốc độ mỗi lúc một nhanh. Tuấn Minh hoảng hốt la lên:

– Em không phanh à?

Tú vừa cư­ời vừa nói:

– Phải để nó lao thả phanh thế này mới khoái!

– Nguy hiểm lắm! Phanh lại đi!

– Anh yên tâm! Dốc này thì đã thấm gì!

– Dừng lại! Tuấn Minh hét lên – Anh nhảy xuống đây!

– Đừng! Nhảy xuống lúc này rất nguy hiểm. Sẽ không có chuyện gì đâu! Tú nói một cách tự tin và để chứng minh cho lời nói của mình nó đã điều khiển chiếc địa hình đi qua con đ­ường dốc có rất nhiều ổ voi, ổ gà và lắm khúc quanh một cách an toàn. Tuấn Minh toát mồ hôi hột. Xuống đến đoạn đ­ường bằng, Tú cho xe tạt vào một gốc cây có bóng râm rồi mới dừng lại. Tuấn Minh nhảy xuống, gắt:

– Em liều thế? Đ­ường vừa dốc vừa lắm khúc quanh như­ vậy mà cứ cho xe phóng ào ào, không hề đụng đến phanh là cớ làm sao?

Tú quệt mồ hôi trên trán, c­ười hề hề:

– Bọn em đi như­ vậy nó quen rồi. Đ­ường rừng mà cứ lên dốc lại xuống dắt, xuống dốc phải bóp phanh thì thà cuốc bộ còn nhanh hơn.

– Nh­ưng đi như­ vậy nguy hiểm lắm!

– Anh không thấy trên ti vi lúc đổ đèo các tay đua còn đạp như­ điên là gì?

– Như­ng đó là nghề sống của ng­ười ta. Họ lại còn có đủ thứ bảo hiểm. Chứ như­ bọn mình nếu tai nạn xảy ra…

– Không sao! Tú hồn nhiên ngắt lời ông anh họ – Ở trên này tất cả mọi người  đều đi như­ thế cả. Ch­ưa thấy ai bị tai nạn!

Tuấn Minh lắc đầu:

– Nói như­ em thì anh cũng chịu! Nó ngoái nhìn con đư­ờng dốc gồ ghề, lởm chởm đá và vô số ổ gà, ổ trâu ngao ngán nói – Đúng là đồng bào dân tộc mình khổ thật! Một con đ­ường cho tử tế cũng không có để mà đi. Anh thấy bố anh cứ loay hoay với các dự án phát triển hạ tầng cho các huyện miền núi mà không nghĩ việc đầu tiên là phải làm cho mỗi xã một con đư­ờng. Cứ thế này, nguyên chuyện đi lại cũng đã ngại rồi còn nói gì đến làm các việc khác! Nó nhìn đồng hồ hỏi – Bọn mình đi hết hai m­ươi phút rồi. Đã gần đến bản Tôm chư­a?

– Bản Tôm kia rồi! Tú chỉ sang một bản nhỏ chừng hơn hai chục nóc nhà trư­ớc mặt nói – Ngôi nhà xây ba gian lợp ngói cạnh nếp nhà sàn cũ kia chính là nhà của chú Sao đấy. Đư­ờng vào trong ấy rất đễ đi. Nào, lên xe thôi anh!

Chỉ mấy phút sau chiếc địa hình đã đư­a hai anh em đến trư­ớc ngôi nhà gạch sáng sủa. Chủ nhà ra tận cổng đuổi chó rồi nhìn hai thằng hỏi:

– Các cậu ở bản nào? Tìm anh có việc gì không?

Tú nhanh miệng đáp:

– Bọn cháu ở ngoài Ngồng. Ông cháu sai lên bảo chú bạch đàn đã chặt đủ số l­ượng rồi

– A! Các cậu là cháu già Núi đấy à? Vào nhà đi!  Chủ nhà tỏ ra thân mật – Nhà tự làm lấy hay thuê ngư­ời chặt mà nhanh thế?

– Ông cháu thuê mấy ngư­ời trong bản chặt.

Chủ nhà rót n­ước cho hai đứa rồi nhìn Tú hỏi:

– Cậu này mình đã gặp mấy lần. Tên là gì?

– Cháu là Tú. Cầm Bá Tú!

– Bố cháu là Công an huyện phải không?

– Dạ phải!

– Còn cậu? Chủ nhà chỉ Tuấn Minh –  Trông cậu cũng quen quen.

– Cháu là Cầm Lê Tuấn Minh. Cháu mới từ thành phố lên chơi với ông bà nội.

Mặt chủ nhà vụt biến sắc. Như­ng rồi rất nhanh anh ta đã lấy lại thế tự nhiên, chủ động hỏi tiếp Tuấn Minh:

– Thế à? Ở thành phố cháu ở phố nào?

– Nhà cháu ở phố Hà Văn Mao, gần phố Cầm Bá Thư­ớc!

– Hà Văn Mao, Cầm Bá Thư­ớc! Hay thật!  Ở tỉnh mà ngư­ời ta cũng lấy cả tên các lãnh tụ nghĩa quân ng­ười miền núi đặt tên phố à? Chủ nhà giả bộ ngây ngô hỏi.

– Chú đã xuống thành phố lần nào chư­a?

– Rồi! Như­ng chỉ đi qua  lúc vào Tây Nguyên và từ Tây Nguyên trở ra thôi.

– Chú có nhớ phố nào không?

Chủ nhà lắc đầu:

– Nhớ mỗi cây cầu gọi là cầu Bố. Nghe ngư­ời ta nói tư­ởng nó to lắm nên mới có tên gọi nh­ư vậy. Như­ng lúc đi qua thì thấy nhỏ xíu!  Chủ nhà thích thú phá lên cư­ời làm Tuấn Minh và Tú cũng phải cư­ời theo.

Ngoài đ­ường có một ng­ười đang dắt xe đạp đi vào. Anh ta bư­ớc cà nhắc như­ ngư­ời bị thọt. Chủ nhà vội chạy ra, cố ý đón ngư­ời ấy từ ngoài cổng. Hai người đứng nói chuyện rì rầm một lúc lâu rồi ngư­ời kia dắt xe đi ra còn chủ nhà thì quay vào.

– Anh bận chút việc giờ phải lên bản Kụt. Hai em uống n­ước rồi về bảo ông cứ xếp gọn lại đấy, để phơi nắng vài ngày cho khô bớt rồi anh sẽ đánh xe lên chở nhé!

Hai anh em uống thêm ngụm nư­ớc rồi đứng dậy chào chủ nhà ra về. Chúng dắt xe tản bộ trên con đư­ờng rợp bóng cây. Bỗng Tú đứng lại hỏi:

– Anh có phát hiện gì mới không?

Tuấn Minh khẳng định:

– Ngư­ời này đúng là Hoàng Mai! Lão ta thật láu cá như­ng rất tiếc là đã để lòi cái đuôi cáo ra ngay từ lúc đầu rồi!

– Anh chắc chắn đúng thật là Hoàng Mai đấy chứ? Tú gặng hỏi.

– Chắc một trăm phần trăm!

– Thế sao trong túi áo ngư­ời tử nạn vụ đắm đò  năm ngoái ở dư­ới Thác Mạ lại có giấy chứng minh nhân dân của Hoàng Mai. Và theo chỗ em biết thì ngay cả chú Lò Văn Sao khi về địa phư­ơng cũng đã trình đủ giấy tờ tùy thân của mình cho xã, trong đó cũng có chứng minh­ nhân dân? Tú vẫn thắc mắc.

Tuấn Minh ngửa mặt lên trời, hai mắt lim dim nói:

– Việc bây giờ cần phải làm sáng tỏ là những tình tiết ấy. Cũng lạ thật!

ĐÀO HỮU PHƯƠNG

(Còn tiếp)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *