Vanvn- Trại Sáng tác văn học cho thiếu nhi hè 1990 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Hà Nội là một “cú hích” đối với Đào Hữu Phương. Từ một cây bút nghiệp dư lại sống xa thành phố, các sáng tác chủ yếu in ở địa phương, sau khi tham gia trại, ông bắt đầu mạnh dạn gửi bài đến các báo Trung ương. Trang Văn học Thiếu nhi Báo Văn Nghệ, Chương trình Văn nghệ Thiếu nhi Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Thiếu Niên Tiền Phong đã dành thời lượng phát sóng và đăng tải nhiều truyện ngắn, truyện dài kỳ viết cho thiếu nhi của ông. Bạn nghe đài và độc giả nhỏ tuổi trên mọi miền đất nước đã biết tới và yêu mến nhà văn Đào Hữu Phương.

>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 1
>> Tiếng vọng rừng xanh – Truyện thiếu nhi của Đào Hữu Phương – Kỳ 2
6
Gìa Quế tiễn ba ông cháu xuống đường, đứng nhìn lưu luyến một lúc rồi mới quay vào đóng cổng. Lội qua con suối cạn, nội không đi theo lối cũ mà rẽ vào con đường đất đỏ mịn màng. Tuấn Minh nhắc:
– Ông ơi! Hình như là đi sai đường rồi.
Nội cười nói:
– Theo lối này sang Ngù rồi cũng về nhà được. Ông còn muốn ghé thăm thầy giáo Tâm một lúc. Thầy Tâm về hưu đã năm năm rồi. Thầy là giáo viên dạy văn lâu năm ở trường Trung học phổ thông huyện. Kiến thức của thầy về các lĩnh vực xã hội rộng lắm. Bố các cháu đều đã được học với thầy.
Tú reo lên:
– Cháu cũng đã được nghe thầy đến trường nói chuyện về cụ tổ Cầm Bá Thước trong một gìơ ngoại khóa rồi. Thầy nói hay lắm!
Tuấn Minh háo hức:
– Hẳn thầy là cả một pho tư liệu sống về con người và bản sắc văn hoá Thái. Được nghe thầy nói chuyện thì thú vị lắm. Ở thành phố thỉnh thoảng có dịp cháu lại đến Thư viện Khoa học tổng hợp nghe các chuyên gia về Dân tộc học nói chuyện với độc giả.
Nội xoa đầu Tuấn Minh:
– Yên chí đi! Nếu cháu muốn nghe thầy nói chuyện lát nữa ông sẽ cho hai anh em ở lại chơi, chiều về sau cũng được.
Ba ông cháu rẽ vào một lối nhỏ đầy bóng cây rồi dừng lại trước một nếp nhà sàn xinh xắn. Một ông già dáng đạo mạo, mặc bộ pi-da-ma sọc bước từ trên cầu thang xuống, ra tận cổng đón.
– Chào thầy Tâm! Nội lên tiếng trước – Thầy có khỏe không?
– Chào bác! Cảm ơn bác tôi vẫn khỏe. Mời bác vào nhà đi.
Ba ông cháu theo thầy Tâm bước lên cầu thang. Khác với ngôi nhà sàn cổ làm bằng nhiều loại gỗ quí, bào đục rất sơ sài của già Quế, nhà thầy Tâm được làm toàn bằng gỗ quế. Cột, xà bào rất nhẵn và được đánh qua một lớp dầu nên có màu nâu rất bóng. Cửa sổ thầy mở rất nhiều nên trong nhà rất sáng sủa. Gian Hoòng hoóng (2) cũng rộng hơn các gian khác nhưng phía dưới bàn thờ tổ tiên còn được kê một cái kệ cũng đóng bằng gỗ quế, có nhiều ngăn. Trong mỗi ngăn xếp ngay ngắn rất nhiều sách. Cứ như một góc thư viện. Cạnh cửa sổ là một cái bàn viết thấp, trên bàn đặt mấy cuốn sách và một tập giấy A4 đang viết dở. Thầy Tâm vừa rót nước pha chè vừa nói:
– Bà nhà tôi ra ngoài Ngù có tí việc. Bác uống nước đi. Ông cháu đi từ lúc nào mà lên sớm thế?
Nội lấy trong túi thổ cẩm ra gói quà, đặt lên bàn rồi nói:
– Hôm qua tôi đưa hai thằng này lên thăm già Quế. Tối ngủ lại trên ấy giờ mới qua đây.
– Vậy à? Gìa Quế có khỏe không bác?
– Ông cụ hãy còn cường tráng lắm!
Thầy bảo Tuấn Minh và Tú uống nước rồi hỏi:
– Hai đứa này đều là cháu nội bác à?
– Vâng! Thằng này… Nội chỉ Tú – Là con thằng Lâm, Công an huyện. Còn thằng này…Nội chỉ Tuấn Minh – Là con thằng Sơn, công tác ở Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh. Cháu vừa học hết lớp Mười trường chuyên Lam Sơn. Lần này thằng Sơn về huyện công tác nên cho nó về chơi với tôi một tuần.
– Thế à? Thầy Tâm nhìn Tuấn Minh bằng cả ánh mắt đầy thán phục – Ở thành phố mà vào được ngôi trường danh giá ấy là đáng nể lắm. Em học khối nào?
– Dạ, cháu học lớp chuyên văn ạ!
– Chuyên văn! Thầy Tâm ngạc nhiên – Vậy em không định nối nghiệp bố à?
Tuấn Minh ngượng ngùng không đáp.
Nội nhấp thêm ngụm nước rồi xoa xoa hai bàn tay vào nhau nói:
– Ông cháu tôi vào thăm thầy, thấy thầy vẫn khỏe nên rất mừng. Gìơ có lẽ xin phép thầy tôi phải về vì hôm qua mới trồng dặm ít quế, phải tưới cho nó kẻo nắng này lại chết hết. Lúc nào thư thả mời thầy ghé qua nhà chơi.
Thầy Tâm tỏ ra không vui:
– Sao mới ngồi chơi một lúc bác đã về ngay. Ở lại ăn với vợ chồng tôi bữa cơm đã. Tôi có câu chuyện cũng đang muốn nói với thằng cháu này.
Nội nhìn Tuấn Minh nói:
– Vâng! Thằng này nó cũng đang rất muốn được nghe thầy nói chuyện. Hay thầy cho cháu ở lại chơi rồi chiều em nó đem xe đạp lên đón về sau.
– Thế cũng được! Thầy Tâm vui vẻ – Vậy bác và cháu tranh thủ về kẻo nắng.
Tuấn Minh theo thầy Tâm ra cổng tiễn nội và Tú rồi mới trở lên nhà. Thầy bảo Tuấn Minh ngồi đối diện với mình bên bàn viết rồi chuyện trò với nó một cách thân mật:
– Học văn là học làm người. Sau này dù có đi dạy học hoặc làm công tác nghiên cứu, làm nhà văn, ngoài kiến thức cơ bản còn phải bổ sung thêm vốn sống thực tế ngoài đời. Cố lên em ạ! Thầy nhìn sang cánh rừng trước nhà thì thầm nói như dốc bầu tâm sự – Ngày thầy còn đứng trên bục giảng, có hai học trò thầy yêu quí và kì vọng nhất là bố em và Cầm Bá Lai ở Lùm Na. Cả hai trò này đều rất giỏi văn, từng đoạt giải cao trong kỳ thi học sinh giỏi môn học này ở cấp tỉnh. Lúc vào Đại học không hiểu sao chỉ có mình Cầm Bá Lai đăng kí nguyện vọng học khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, còn bố em thì lại ghi tên học trường Kinh tế – Kế hoạch. Cầm Bá Lai phận mỏng, ra trường về tỉnh công tác chưa được bao lâu đã sớm ra đi, chỉ để lại cho đời công trình sưu tầm Tục ngữ Thái và bao công việc còn dang dở. Ngoài bố em và Cầm Bá Lai, trước và sau đó thầy cũng còn nhiều gương mặt đáng nhớ. Họ chẳng những học giỏi môn văn mà còn có năng khiếu sáng tác văn học nữa. Nhiều người ngay lúc còn ngồi trên ghế nhà trường đã có thơ in báo và tạp chí văn nghệ địa phương. Thầy cũng hi vọng sau này học xong bậc Đại học họ sẽ là những nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, nhà văn, nhà thơ làm rạng rỡ cho quê hương. Nhưng cứ sau một khoảng thời gian dài trên dưới chục năm, khi gặp lại lại thấy họ đang ngồi ở cương vị trưởng một ban phòng nào đó dưới tỉnh hoặc là Chủ tịch, phó Chủ tịch huyện rồi. Nhắc lại những bài thơ và những khát vọng văn chương ngày xưa họ chỉ cười. Thầy không biết nên buồn hay nên vui…
Tuấn Minh dè dặt:
– Thưa ông, cháu muốn hỏi…
Thầy Tâm xua xua tay ngắt lời Tuấn Minh:
– Đừng xưng hô thế! Cứ gọi thầy xưng em cho thân mật. Em muốn hỏi thầy điều gì?
– Dạ, điều em muốn hỏi là hồi còn đi học bố em học giỏi văn hay giỏi toán ạ?
– Bố em học giỏi cả hai môn nhưng theo nhận xét của thầy thì khả năng văn học của bố em vẫn xuất sắc hơn.
– Vậy mà bây giờ em thấy bố em rất ít đọc các tác phẩm văn học. Tuấn Minh nói và cảm thấy buồn.
– Cũng có thể là vì công việc. Những người làm chính trị, làm kinh tế thường ít có thời gian và hứng thú để đọc các tác phẩm văn học – Ông giáo già bất ngờ đưa ra một câu hỏi – Em có nhận xét gì về ngôi nhà của thầy không?
– Dạ! Tuấn Minh có phần lúng túng – Em thấy đây là một ngôi nhà sàn có kiểu dáng rất đẹp. Thầy kiếm đâu được nhiều gỗ quí thế ạ?
– Không phải gỗ rừng đâu. Toàn quế đấy! Tất cả vật liệu làm nên ngôi nhà này già Quế đều lấy từ vườn rừng của mình tặng thầy. Cọ lợp mái là loại lá già, trăm năm sau không phải lợp lại vì nó còn bền hơn cả ngói. Đây là kiểu nhà sàn truyền thống của người Thái. Chỉ khác là kích thước thầy đã rút xuống chỉ còn tám mươi lăm phần trăm thôi. Em lại đây, thầy cho xem cái này.

Tuấn Minh theo thầy Tâm đi sâu vào phía trong. Thầy mở cửa một gian kho, trong chứa rất nhiều vật dụng bằng đồng. Đặc biệt có cả một bộ cồng chiêng hơn chục cái. Thầy nói :
– Gian này gọi là gian Hoòng hờ, Hoòng hờ là cái kho để cất giữ tài sản chung của cả gia đình. Thầy dùng nó làm nơi lưu giữ, bảo quản những vật dụng truyền thống của người Thái đã sưu tầm được. Bộ cồng chiêng này là tài sản quí giá nhất của dòng họ Cầm. Tổ tiên người Thái ở huyện Thường nói chung và dòng họ Cầm nói riêng ngày xưa đã phải trải qua một cuộc di cư từ vùng núi Tây Bắc của đất nước qua Lào rồi mới đến đây lập nghiệp. Bộ cồng chiêng này đã theo dấu chân các cụ trong suốt cuộc hành trình gian lao và vất vả ấy. Vậy mà cách đây không lâu, vào thời điểm kinh tế đất nước khó khăn có mấy thanh niên hư hỏng trong bản đã lấy trộm nó đem bán cho một bọn người xấu. Thầy đã phải rút toàn bộ số tiền tiết kiệm gửi Ngân hàng để chuộc lại. Nhưng đấy là những tài sản hữu hình, còn những thứ không thể nhìn thấy được thì sao? – Ông giáo già kéo Tuấn Minh trở lại gian Hoòng hoóng, bất ngờ đưa ra một đề nghị – Em có thể xem qua tủ sách của thầy rồi cho thầy một nhận xét được không?
Tuấn Minh thật sự chưa rõ ý ông giáo già nhưng vẫn đứng dậy đi đến bên các kệ sách. Tủ sách của thầy phần lớn là các tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu về văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số trong tỉnh, được sắp xếp rất khoa học. Đồ sộ nhất là bộ sử thi “Đẻ đất Đẻ nước” cúa dân tộc Mường. Tuấn Minh suy nghĩ rồi mạnh dạn đưa ra nhận xét:
– Thưa thầy! Em thấy trên tủ sách của thầy các tác phẩm sưu tầm, nghiên cứu về văn học dân gian Mường có số lượng nhiều nhất, sau đó mới đến dân tộc Thái và các dân tộc ít người khác.
– Đúng vậy! Thầy cảm ơn em. Đó chính là điều lâu nay thầy rất băn khoăn. Đặt một “Trường ca Ú Thêm” của Hà Văn Ban, một “Tục ngữ Thái” của Cầm Bá Lai, một “Inh Lài” của Ngân Đức Minh…cạnh “Đẻ đất Đẻ nước” của Vương Anh, “Mo lên trời”, “Tục ngữ dân ca Mường”, các tập “Truyện Thơ Mường” của hai tác giả Hoàng Anh Nhân và Minh Hiệu mới thấy chỉ riêng mảng văn học dân gian trong kho tàng văn hóa phi vật thể của dân tộc Thái mình là còn quá mỏng. Văn học dân gian Thái Xứ Thanh nói chung và huyện Thường này nói riêng vẫn còn là những vỉa quặng quí chưa được khai thác. Điều đáng lo là những vỉa quặng quí ấy hiện lại đang nằm trong đội ngũ những nghệ nhân già. Mà họ thì lại đang dần ít đi vì tuổi tác…
– Em hiểu rồi! Tuấn Minh ngồi xuống bên ông giáo già, với tay lật từng trang bản thảo để trên bàn – Chính vì lẽ đó mà thầy đang bỏ công sức sưu tầm, ghi chép lại cái vốn văn học dân gian phong phú còn chưa được khai thác hết của dân tộc mình?
Ông giáo già xoa đầu Tuấn Minh, xúc động nói:
– Em đã biết công việc thầy đang làm! Nhưng thầy có cái khó của mình là không có khả năng tập hợp những tư liệu mình đã sưu tầm, ghi chép thành một văn bản khoa học. Và giả sử có làm được thì với cơ chế xuất bản như hiện nay thầy cũng khó mà lo được nguồn tài chính cần thiết để công bố tác phẩm. Thầy vẫn vừa làm vừa chờ, hi vọng một ngày nào đó sẽ tìm được một người tâm đắc để trao gửi nguồn tư liệu mình đã sưu tầm, ghi chép cho người ấy viết lại thành một công trình tầm cỡ để giới thiệu nền văn hóa đầy bản sắc của dân tộc mình với các dân tộc anh em trong tỉnh. Tuấn Minh à, thầy nói điều này không biết có sớm quá không. Nhưng đúng là hôm nay gặp em thầy nghĩ người mà mình có thể tin tưởng để trao gửi ước nguyện này chính là em đó!
– Thưa thầy! Tuấn Minh hết sức bất ngờ và vô cùng sửng sốt trước quyết định của ông giáo già – Em làm sao có thể đảm đương được một công việc to lớn như vậy?
– Em yên tâm đi. Không phải làm từ bây giờ mà sáu, bảy năm nữa, lúc ấy em đã tốt nghiệp Đại học và thầy cũng có thêm thời gian để chỉnh lí lại nguồn tư liệu mình đã sưu tầm ghi chép được trước khi trao nó cho em. Thầy nghĩ, có nó, cộng với vốn kiến thức em đã tiếp nhận được trong trường ốc chắc chắn em sẽ thành công.
– Ôi, thầy! Tuấn Minh xúc động ngã vào lòng ông giáo già – Nhưng mà em lo mình sẽ không đáp ứng sự tin cậy của thầy!
Ông giáo già xoa đầu nó:
– Đừng lo! Thời gian với em hãy còn rất dài. Chỉ cần em thật sự tâm huyết với những gì là di sản của dân tộc mình. Thầy xem ra bây giờ người ta ứng xử với các giá trị văn hóa cả vật thể và phi vật thể của các dân tộc ít người đã có nhiều dấu hiệu nghiêng về thương mại. Gần đây có một chuyện làm thầy rất bất bình là việc Giám đốc Bảo tàng tỉnh cử cán bộ lên bản Tùm thu hồi cái trống đồng bà con trên ấy đào được mà không thông qua địa phương. Số tiền thù lao họ trả theo chỗ thầy được biết tính ra chỉ bằng tiền mấy ngày vào rừng chặt nứa. Thầy đã viết thư phản ánh chuyện này với Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin và hỏi ý kiến cả lãnh đạo Sở Công an nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm.
– Thưa thầy, chuyện này cụ thể như thế nào ạ? Tuấn Minh hồi hộp hỏi. Nó linh cảm có điều gì đấy liên quan đến cái trống đồng trong Hang Dơi, đến tấm giấy giới thiệu của ông cán bộ cấp tỉnh đã lên nhà già Quế đòi mua bộ xương hổ và cả biệt tài khắc dấu của Hoàng Mai nữa.
Ông giáo già nhấp một ngụm trà rồi nói:
– Chuyện là thế này. Cách đây nửa tháng có một cán bộ của Bảo tàng tỉnh cầm giấy giới thiệu đến nhà trưởng bản Tùm, người đã đào được cái trống đồng trong lúc đào ao xin được gửi gia đình một số tiền thù lao và đem cổ vật về thành phố trưng bày trong Bảo tàng tỉnh. Thầy nghĩ việc làm này có điều gì đấy không được đàng hoàng, minh bạch cho lắm nếu không muốn nói là cái kiểu cử người đi thu hồi cổ vật thế này là trái qui định của pháp luật. Ít ra trước khi về xã làm việc này người đó phải thông qua phòng Văn hóa – Thông tin huyện để phòng cử cán bộ đi cùng, vừa dễ dàng tiếp cận đối tượng phải làm việc vừa để được giúp đỡ những khi cần thiết. Đằng này lại thuê xe ôm xông thẳng đến nhà dân thì thào mặc cả, trả tiền rồi xách cổ vật đi mà không hề báo qua lãnh đạo địa phương lấy một lời. Đến rồi đi, lén lút cứ như là buôn lậu…
– Thầy có được xem giấy tờ của người ấy không ạ?
Ông giáo già lắc đầu:
– Lúc thầy biết thì mọi chuyện đã xong rồi. Thầy có gặp và hỏi chuyện trưởng bản Tùm về việc này nhưng được anh ta bảo giấy giới thiệu của Giám đốc Bảo tàng tỉnh cấp cho người ấy nghiêm chỉnh lắm. Thầy cũng đã tìm gặp Lò Văn Sao vì Sao là người trực tiếp đưa anh cán bộ kia đến nhà người đào được cổ vật. Sao nói đó chỉ là sự tình cờ vì hôm ấy chở khách ra Bù Đồn, gặp anh ta đi xe ôm từ huyện lên, nghe anh ta nói yêu cầu công việc và hứa trả thù lao thỏa đáng thì sốt sắng đưa anh ta đến nơi cần đến, xong việc lại đưa anh ta xuống phố huyện, nhận tiền công rồi về chứ có quan tâm gì đến chuyện giấy tờ và công việc của người ấy đâu.
– Vậy là quá rõ rồi thầy ạ!
– Em nói rõ là rõ cái gì? Chuyện này em cũng biết rồi à?
– Dạ chưa! Nhưng được thầy kể cho nghe chuyện này em mới xâu chuỗi những việc được thấy, được nghe gần đây thì thấy nó liên quan rất mật thiết với nhau thầy ạ.
Tuấn Minh lần lượt kể lại những gì mình đã được nhìn thấy trong Hang Dơi, trong Rừng Ma và câu chuyện già Quế kể đêm qua về việc ông cán bộ cầm giấy giới thiệu của tỉnh đến hỏi mua bộ xương hổ cho ông giáo già nghe. Nó cũng không quên đưa ra nhận xét của mình và mối nghi ngờ nhằm vào thủ phạm chính là Hoàng Mai. Ông giáo già vỗ tay reo lên:
– Thật tuyệt vời! Vậy là các em đã khám phá được những tình tiết rất quan trọng của một vụ án lừa đảo và làm con dấu giả của một tên tội phạm đang lẩn trốn ở địa phương mình rồi. Biết đâu hắn còn là thủ phạm đã giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ tùy thân! Nhận định của thầy cũng có phần chính xác đấy chứ. Đúng là trong việc làm này có rất nhiều dấu hiệu của sự lừa đảo. Nhưng thật may là cái trống đồng kia chúng còn chưa chuyển ra khỏi địa bàn xã mình. Thầy ngờ rằng cái sự chậm trả lời những thắc mắc của thầy của Sở Văn hóa – Thông tin và Sở Công an hẳn là có lí do của nó. Biết đâu sau khi nhận được những thông tin do thầy cung cấp các anh ấy đã bí mật triển khai một chuyên án gì đó để tóm gọn bọn tội phạm này. Nếu sự việc diễn ra đúng như vậy thì công của các em là rất lớn!

7
Cả đêm tuy không ngủ nổi bốn giờ đồng hồ nhưng sáng dậy Tuấn Minh vẫn cảm thấy trong người sảng khoái lạ. Thông tin thu thập được từ câu chuyện của già Quế và thầy Tâm đã làm sáng tỏ những nghi vấn về một mưu toan lừa đảo, chiếm đoạt cổ vật của Hoàng Mai và một kẻ nào đó chưa rõ mặt. Đêm qua lại không có mưa, trời đầy sao, hứa hẹn một ngày nắng đẹp nên hai anh em quyết định tiếp tục thực hiện kế hoạch lên Bù Cheo. Mọi thứ cần thiết cho chuyến đi đều đã được chuẩn bị sẵn. Tuấn Minh còn lục trong ba lô lấy ra chiếc máy ảnh tự động và chiếc máy ghi âm nhỏ xíu để mang theo.
Ăn sáng xong bà đầm cho hai anh em một đầm cơm nếp thật to và một gói muối vừng để có cái ăn trưa. Tú bảo:
– Không phải đầm cơm đâu bà ạ. Bà cho bọn cháu mang theo hai bò nếp và gói muối vừng. Lên trên ấy bọn cháu lam cơm ăn cho nóng. Anh Minh bảo từ bữa lên đây đến giờ chưa được ăn cơm lam.
– Tùy các cháu! Bà nói – Chỉ sợ lên đó nước nôi củi lửa không ra gì rồi lại ăn sống ăn xít.
– Bà yên tâm đi! Một thác nước, một rừng cây, chuyện củi lửa thiếu làm sao được.
Tú lấy con dao nắp của nội đeo vào hông, khoác cái túi thổ cẩm đựng mấy bò gạo nếp lên vai rồi giục Tuấn Minh lên đường.
Đến Ngồng, Tuấn Minh đột ngột dừng lại nói:
– Tú này, hay bọn mình lên trại rừng mượn nội con Lu? Có nó đi cùng anh cảm thấy yên tâm hơn. Biết đâu lên trên ấy nó lại không giúp anh em mình tìm ra một thứ gì đấy như ở trong Hang Dơi.
– Phải đấy! Tú vỗ tay tán thưởng – Anh không nhắc thì em quên mất. Vậy anh đứng đây chờ một lúc. Để em chạy lên trại rừng cho.
Tú đưa cái túi thổ cẩm cho Tuấn Minh rồi hăm hở chạy đi. Chỉ hơn mười phút sau nó đã trở lại, theo sau là con Sói xám. Tuấn Minh hỏi:
– Em thuyết thế nào mà nội đồng ý nhanh thế? Anh cứ lo nội không cho nó đi.
– Nội không có trên chòi. Chắc lúc đi nội còn rẽ qua nhà bà thím.
– Vậy, lúc lên nội không thấy chó rồi làm sao?
– Không lo! Em đã viết cho nội mấy chữ trên cầu thang rồi. Tú giành lại cái túi thổ cẩm đeo vai rồi giục Tuấn Minh – Đi thôi anh.
Cơn mưa hiếm hoi tối hôm kia đổ xuống lượng nước chẳng thấm vào đâu. Dòng chảy của sông Lẹ hôm nay đã thu hẹp lại như cũ. Quãng lội chỉ còn sâu chưa đến đầu gối. Nước chảy róc rách trên nền lớp sỏi đã nhẵn bóng vì vết chân người. Dòng nước trong vắt, không một chút vẩn đục. Tuấn Minh toan cởi giày lội xuống để được ngâm cả hai bàn chân trong làn nước trong mát nhưng bị Tú ngăn lại:
– Đừng! Da bàn chân của anh mỏng lắm, cởi giày đi rất kến, chịu sao được!
Tú nói rồi khom lưng, bảo Tuấn Minh ôm cổ để nó cõng qua sông.
Bộ ba đi chừng hai mươi phút nữa thì gặp một cánh đồng khá rộng. Từ đây nhìn lên, dãy Bù Cheo như một bức tranh khổng lồ dăng thành trước mặt. Toàn bộ bức tranh là một màu xanh xẫm của cây rừng. Chỉ duy nhất ở giữa lưng chừng có một vệt sáng như dải lụa trắng nhô ra. Tuấn Minh ngước nhìn một lúc lâu mà vẫn không biết nó là cái gì.
– Thác Trai Gái đấy! Tú nói – Quãng ấy cây rừng khá thưa nên đứng đây cũng có thể nhìn thấy. Nếu có mưa vệt sáng ấy trông còn rộng hơn nhiều. Ở cuối cánh đồng này, trải dài dưới chân núi là bản Bèn và bản Cả Xoi. Đây đã là vùng giáp ranh hai tỉnh Thanh – Nghệ. Bên kia Bù Cheo là bản Pang của xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Cho đến bây giờ dân hai bản Cả Xoi và Bèn vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp. Họ chỉ xuống chợ mua mấy thứ cần thiết như kim chỉ, dầu đèn, mắm muối. Ốm đau thì tự điều trị bằng cây thuốc lấy từ trên rừng. Đường vào bản chỉ có một lối duy nhất là đi men theo bờ ruộng này thôi.
Cả Xoi quả là một bản nhỏ khá heo hút. Đi hết một thôi đường dài mới gặp một điểm dân cư với gần chục nóc nhà sàn dựng quây quần bên nhau. Trên đám cỏ dưới bóng cây sổ sai trĩu quả có vài đứa trẻ ăn mặc sơ sài đang túm áo nhau vừa đi vòng tròn vừa nghêu ngao hát. Chúng hát bằng tiếng Thái, nghe ngồ ngộ. Tuấn Minh chẳng hiểu gì cả:
– “Lôm, lôm.
Ma pú cỏ coọc
Lôm oọc noọc cỏ quển
Lôm ma dển cỏ san
Lôm hau ban Cạ Xoi lim dễn”
Tiếng hát đột nhiên dừng lại. Tuấn Minh hỏi:
– Chúng nó hát bài gì vậy? Sao lại thôi?
Tú trả lời:
– Hết rồi! Đó là bài đồng giao có tên là “Gọi gió”. Nghĩa của nó là:
“Gío ơi gió, gió vào suối cây cốc,
Gío ơi gió, gió ra gốc cây bồ quân,
Gío thổi đi thổi lại nơi bãi cây sổ,
Gío thổi vào bản Cả Xoi cho mát, gió ơi.”
– Ngộ thật đấy! Tuấn Minh nói. Bỗng bọn trẻ thả áo nhau, quay ra đuổi theo một con bướm vàng, vừa chạy chúng vừa nghêu ngao hát. Bài hát này nghe cũng rất lạ tai:
– “Căm ơi, căm ả
Căn ma ni hờ cú boọc
Căn ọc bi hờ cú xón
Căm ơi, căm ạ”
Tuấn Minh dừng lại hỏi Tú:
– Bài hát ấy nói gì vậy?
– Đó cũng là một bài đồng dao có tên “Gọi bướm”. Bài hát này trẻ ở tuổi mẫu giáo lớn và lớp một, lớp hai rất thích hát. Nghĩa của nó là:
-“Vàng ơi, vàng ạ
Vàng đến đây cho tao bảo nào
Vàng ra đây cho tao dặn cái nào
Vàng ơi, vàng ạ”.
– Ngộ thật! Tuấn Minh đưa cái máy ghi âm cho Tú bảo – Em cầm máy lại gần chỗ chúng nó, bật cái nốt này ghi lại cho anh. Cứ để chúng nó chơi tự nhiên để anh bấm vài kiểu ảnh.
Tú đã tiếp cận được bọn trẻ, nhưng khi chúng phát hiện có người lạ đang dương vật gì lên ngang mặt hướng về phía mình thì đứa nào đứa ấy sợ hãi hét lên rồi bỏ chạy tán loạn hết. Tú cầm máy trở ra nói:
– Trẻ trên này chúng nó chưa quen. Muốn chụp ảnh anh phải núp sau một thân cây nào đó rồi bí mật bấm máy mới được. Thôi, để dịp khác. Mình lên đường kẻo muộn anh.
Hai anh em khẩn trương sải những bước thật dài trên con đường qua bản nhỏ. Con Sói xám lúc vọt lên, lúc thụt lại sau, cái đuôi luôn ngúng nguẩy tỏ ra thích thú. Cõng nhau vượt qua một con suối cạn anh em Tuấn Minh bắt đầu đặt những bước đầu tiên lên Bù Cheo. Rừng vẫn còn rất lạnh. Đã gần tám giờ mà sương sớm vẫn chưa tan hết. Rừng đổ nước rào rào như ma. Từ các khe sâu hơi núi vẫn đùn lên lớp lớp. Mới leo được mấy quãng dốc mà Tuấn Minh đã thấy thấm mệt. Tú vừa đi vừa phải dừng lại chờ nó. Luồn rừng hết một giờ hai anh em mới đến chân một cái dốc vừa cao, vừa chênh vênh hiểm trở. Tú bảo:
– Dốc Thăn Phạ đấy! Thăn Phạ tiếng Thái có nghĩa là cái lưng của trời. Dốc này mà gặp mưa thì lên cũng khó mà xuống lại càng khó hơn. Nghỉ một lúc cho lại sức rồi hãy đi tiếp. Cũng sắp đến thác Trai Gái rồi.
Qủa đúng như lời Tú nói. Tuấn Minh lắng tai nghe và nhận ra phía xa trên cao kia đã có tiếng nước đổ ầm ào từ trong cánh rừng nguyên sinh rậm rạp vọng xuống. Thấy trong người đã khỏe, hai anh em lại động viên nhau hăm hở vượt dốc. Thăn Phạ! Đúng là cái lưng của trời. Vừa dốc, vừa trơn. Cả Tú và Tuấn Minh đã cúi rạp người để bò mà vẫn như có một sức mạnh vô hình muốn níu kéo tấm thân mệt mỏi, đẫm mồ hôi xuống vực. Trong khi đó thì con Sói xám hết chạy lên lại chạy xuống mà trông bộ vẫn phởn phơ. Nó có vẻ sốt ruột vì sự chậm chạp của hai ông chủ nhỏ.
Cuối cùng thì cả người và vật cũng đến được thác Trai Gái. Con đường độc đạo cắt ngang rừng giang đưa hai anh em đến thẳng thượng nguồn. Từ đây hai đứa lại phải đu người lần qua từng mỏm đá đầy rêu ẩm ướt để xuống tầng hai của thác. Tú chỉ khối nước khổng lồ đang đổ ào ạt từ tầng một xuống nói:
– Dải lụa trắng anh em mình nhìn thấy lúc sáng chính là khối nước này đấy! Trông thế nhưng đến tầng hai, nơi anh em mình đang đứng đây nước cũng chỉ đủ chảy ngầm qua các kẽ đá, gần đến tầng ba nó lại mới bất ngờ xối ra, đổ vào cái hồ dưới chân thác trước lúc theo dòng chảy xuôi. Thác Trai Gái là nguồn nước chính tạo nên sông Lẹ. Sông Lẹ là sông nhánh của sông Đặt. Sông Đặt chảy qua Bù Đồn rồi đổ nước ra sông Chu ngay trước cửa đền thờ cụ tổ Cầm Bá Thước nhà mình.
Đồng hồ đã chỉ mười giờ. Mặt trời tỏa nắng chan hòa khắp cánh rừng. Tuấn Minh xăng xái chạy đi, chạy lại ngắm nghía, chọn cảnh rồi bảo Tú gọi con Lu đứng vào cho mình bấm máy. Xong, nó trao máy cho Tú rồi bảo:
– Em bấm cho anh vài kiểu!
Tú dẫy lên;
– Em làm sao biết chụp!
Tuấn Minh động viên nó:
– Không có gì phức tạp lắm đâu! Máy tự động. Em cứ dương lên ngắm, nhớ lấy khuôn hình cho đẹp một tí rồi bấm máy là được. Mọi động tác kĩ thuật nó tự làm. Nào, bắt đầu đi!
Tú bấm liền một lúc mấy kiểu rồi trao máy cho ông anh họ. Tuấn Minh hỏi:
– Sao người ta lại đặt tên cái thác này là thác Trai Gái?
Tú chỉ tay xuống tầng ba nói:
– Anh có nhìn thấy những hòn đá hình lăng trụ dưới kia không? Thạch anh đấy! Đá ấy vừa cứng vừa có màu sáng lấp lánh rất đẹp. Tương truyền đó là những giọt nước mắt của một đôi bạn tình nhỏ xuống biến thành. Trong hồ nước kia lại có rất nhiều giống cá Pả tết lúc nào cũng bơi với nhau từng cặp, không bao giờ rời. Đó chính là hiện thân của họ lúc chết hóa thành. Mối tình đẹp đẽ và trong trắng nhưng đầy oan nghiệt ấy là lí do để sau này người đời đặt tên cho cái thác giữa lưng chừng núi cao này là thác Trai Gái. Chuyện dài lắm. Em tóm tắt để anh nghe nhé.
Rồi Tú kể:
– Thuở ấy ở làng Bèn có một có một thợ săn tài ba, nhưng mồ côi cả cha lẫn mẹ. Bên làng Cả Xoi có một cô gái đẹp người, đẹp nết, hát hay và rất khéo tay. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng vì chàng trai quá nghèo, không có trâu, không có bạc trắng để cưới nàng làm vợ. Sau vụ gặt, Tạo ngoài Lẹ vào đốc thuế. Thấy cô gái trẻ đẹp, Tạo muốn bắt làm vợ lẽ. Bố mẹ cô gái sợ Tạo có quyền, có thế nên không dám từ chối. Cô gái lo sợ, tìm gặp người yêu báo tin dữ. Hai người ôm nhau khóc…Rồi đang đêm họ bỏ làng đưa nhau trốn lên Bù Cheo. Đi qua thác nước, thấy phong cảnh đẹp, lại có đám đất bằng chỗ thượng nguồn, họ dừng lại chặt cây dựng lán, tìm hoa trái và săn thú, định sống ở đó với nhau lâu dài…Không ngờ chỉ mấy tháng sau Tạo cho người dò tìm, biết nơi hai người dựng lán sống chung, đã đưa tay chân lên bí mật vây quanh thác…Biết không còn đường thoát, hai người đã chạy ra một mỏm đá bên giọt nước, ôm nhau nhảy xuống…Cái chết của họ đã làm xúc động lòng trời. Một trận mưa rừng và sấm sét dữ dội bất ngờ đổ ập xuống giết chết tên quan thâm ác và bọn đầy tớ. Sau đó trời còn hóa phép cho hai người biến thành đôi cá Pả tết, sống với nhau đời đời trong cái hồ dưới chân thác…Bây giờ một trong hai con cá ấy vẫn thấy một cái vòng lấp lánh dưới mang. Truyền rằng trước khi chết chàng trai đã đeo vào cổ cô gái chuỗi hạt do chính tay mình làm từ một thứ đá quí trên rừng…
Tuấn Minh sững sờ…Không ngờ cái thác giữa lưng chừng núi cao heo hút này lại có một truyền thuyết hay đến vậy. Mối tình chung thủy và cái chết thương tâm của đôi trai gái đã làm Tuấn Minh thực sự xúc động. Chưa bao giờ trong nó lại có một tình cảm yêu thương quê nội đến thế. Ngước mắt nhìn lên cao nó hỏi:
– Từ đây lên tới chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù còn xa không?
Tú đáp:
– Bù Cheo cao 1700 mét, là ngọn núi cao nhất vùng này. Chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù chỉ cách đỉnh núi chưa đến 100 mét. Từ đây lên đó đi nhanh cũng phải hết một giờ. Em tính thế này. Bây giờ đã là mười giờ năm phút. Sẵn nước ta vo gạo lam sẵn ống cơm, lên đó chỉ việc chẻ ra ngồi ăn. Phải khẩn trương kẻo về nhà tối mất.
Tú nói rồi rút dao, vào rừng tìm bụi vàu chọn chặt một gióng đẹp, lấy túi gạo nếp đổ ra xóc qua nước rồi vốc từng nắm nhỏ cho vào, đổ đầy nước, cuộn lá chuối nút chặt lại. Tuấn Minh thì quay ra nhặt những cành củi khô chất thành một đống, xòe diêm đốt. Ngọn lửa bùng lên. Nhìn Tú ngồi xoay xoay ống cơm, Tuấn Minh tò mò hỏi:
– Tú này, ở đây có mấy bụi nứa, cây nào cũng thẳng, đẹp, sao em không chặt lại phải vào rừng chặt vàu?
Tú đáp:
– Dùng vàu bánh tẻ lam thì cơm mới thơm và ngon. Nứa chỉ để lam cơm cho đàn bà đẻ ăn.
Chỉ ít phút sau ống cơm đã cháy đều. Tú vơ lá chuối khô xoa xoa cho nguội rồi lấy dao róc sạch lớp cật lem luốc bên ngoài. Xong, nó kiếm một sợi dây sắn rừng buộc hai đầu, quàng lên vai đeo như người đeo súng rồi xoa tay nói:
– Vậy là yên trí đã có bữa trưa rồi. Mình tiếp tục lên đường thôi anh.
Quãng đường tiếp theo thật ra cũng không mấy khó đi. Hai bên rừng chỗ nào Tuấn Minh cũng thấy những gốc cây to đang đâm chét xanh um. Thỉnh thoảng lại gặp những cái lán dài bằng mấy gian nhà bỏ không nằm xiêu vẹo bên đường. Cái nào cũng đã bị mối xông lên tận nóc. Tú nói:
– Lán của bọn lâm tặc dựng lên để khai thác pơ mu đấy. Mấy năm trước ở đây sôi động như một công trường. Bù Cheo không chỉ nổi tiếng về độ cao mà còn nổi tiếng vì có nhiều pơ mu nhất vùng này. Pơ mu sống tập trung ở tầng giữa, bên trên là sến, sớ, táu, dưới là de, dỗi. Rừng pơ mu không lẫn một thứ cây nào khác, không có muỗi và vắt. Đêm ngủ thậm chí không cần mắc màn. Gỗ khai thác được họ thuê người các làng đem trâu lên kéo xuyên mấy đỉnh núi đến tận Bù Đồn rồi mới đưa xuống sông Đặt để cốn mảng chuyển ra sông Chu hoặc bốc lên ô tô chở qua đường Khe Hạ…
Câu chuyện về cây pơ mu và bọn lâm tặcTú kể đã có tác dụng rút ngắn quãng đường rừng. Chưa hết một giờ leo dốc hai anh em đã có mặt ở một khoảng rừng thưa, có một đám đất bằng khá rộng.
– Đến nơi rồi! Tú nói – Đây chính là chỗ thằng phi công Mỹ đáp dù. Anh thử đoán xem chúng có sự chuẩn bị trước hay chỉ là sự tình cờ may mắn vì cả Bù Cheo duy nhất chỉ ở đây là có một khu đất bằng và rộng thế này.
– Anh nghĩ đây chắc phải có sự chuẩn bị từ trước. Anh đã được đọc một tài liệu về không quân Mỹ thời đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chúng thường trinh sát và lựa chọn rất kĩ các khu rừng có đủ điều kiện để cho phi công nhảy dù nếu máy bay bị ta bắn cháy. Tuấn Minh trả lời rồi nôn nóng hỏi – Vậy còn sự việc xảy ra hôm ấy được chú Đốc thuật lại thế nào?
– Theo lời chú Đốc kể thì sự việc hôm ấy có thể hình dung thế này. Thằng phi công sau khi đáp dù xuống bãi đất trống này đã ung dung ngồi mở điện đài liên lạc về căn cứ. Dù biết nơi mình đang ngồi là rất an toàn nhưng nó vẫn để sẵn khẩu súng ngắn bên cạnh. Không bao lâu sau đó thì hai dân quân bản mình lên kịp. Ngày ấy rừng chắc phải dày đặc cây to nên họ hoàn toàn không bị nó phát hiện khi tiến sát mục tiêu. Từ chỗ nấp nếu muốn họ vẫn đủ điều kiện bắn hạ thằng giặc lái. Nhưng chú Kiên đã đưa ra một lí do cần phải bắt sống nên đã tự động xách súng vòng lên lèn đá phía trên để tiếp cận mục tiêu cho gần. Còn chú Đốc vì không có vũ khí nên vẫn nằm lại. Không bao lâu sau đó thì chiếc trực thăng xuất hiện và sự việc tiếp theo xảy ra là chú Kiên đã không bắn phi công, không bắn máy bay mà tay vẫy khăn mù xoa, tay xách súng chạy ra xin theo giặc. Và chú đã được thằng phi công nhường cho lên trực thăng trước.
– Lèn đá ấy ở đâu? Trên ấy có gì đặc biệt không?
– Ngay trước mặt ta kia! Tú đáp – Chỗ ấy rất nguy hiểm vì cạnh đó có một cái vực rất sâu. Lát nữa anh em mình sẽ lên đấy khảo sát. Còn bây giờ phải nghỉ để ăn cơm cái đã. Em đói bụng lắm rồi!
Tú rút dao, tiện ống cơm làm ba. Nó đưa Tuấn Minh một phần còn hai phần dành cho mình và con Sói xám. Nhưng nhìn quanh chẳng thấy con chó đâu. Tú vừa cắn cơm ăn vừa lẩm bẩm:
– Lạ! Nó chạy đâu nhỉ?
Bỗng từ trên lèn đá vọng xuống tiếng con Lu xủa ăng ẳng. Tuấn Minh vội bật dậy:
– Chắc chắn con Sói xám tìm thấy cái gì trên ấy rồi! Mình lên đó xem sao đi.
Theo thói quen, Tú rút dao, sẵn sàng phát dọn đám cây rừng để mở một lối đi. Nhưng lạ thay khi bắt đầu đặt chân vào đám cây rừng rậm rạp đầy gai chúng bỗng phát hiện ra một lối nhỏ dẫn đến lèn đá như có ai đó đã phát dọn trước đó rồi. Càng ngạc nhiên hơn khi đến nơi chúng thấy trên một phiến đá bằng bên bờ vực con Lu đang đứng xủa trước một khúc chuối rừng trên cắm ba cái chân hương. Cạnh “bát hương” là một cây nến cháy đã hết, chỉ còn lại một đống sáp lùm lùm, đỏ cạch. Tú nhấc khúc chuối rừng lên xem rồi lẩm bẩm:
– Chắc chỉ mới hôm qua. Ai thắp hương làm gì ở đây thế nhỉ?
Bỗng con Lu lại chúi mõm vào một kẽ nứt trên tảng đá bằng hai đứa đang đứng sủa ngạu xị. Hai anh em nhào đến. Tuấn Minh thọc một ngón tay vào kẽ nứt lôi lên hai cái vỏ đạn súng trường đã hoen ố, mắt vụt sáng lên. Nó nhìn cái vực sâu thẳm bên lèn đá rồi lại quay ra quan sát khoảng trống nơi hai thằng đang đứng. Khoảng cách từ đây đến chỗ đám đất bằng nơi thằng phi công Mỹ đáp dù chỉ chừng năm, sáu chục mét. Tuấn Minh quả quyết:
– Chú Kiên không theo giặc! Chú ấy đã đứng đây dùng súng trường bắn vào thằng phi công hoặc cái trực thăng rồi bị chúng phát hiện và đã dùng sức mạnh của cánh quạt máy bay quạt tung cả người và vũ khí xuống vực! Nó giơ hai cái vỏ đạn lên – Đây là bằng chứng nói lên điều đó!
Tú hồi hộp hỏi lại:
– Anh nói vậy nghĩa là vì sợ trách nhiệm lão Đốc đã không báo cáo đúng sự thật mà ghép cho chú Kiên tội mang vũ khí theo giặc?
– Chắc chắn như vậy! Em cố nhớ lại xem, ngày cái máy bay bị ta bắn cháy với ngày hôm qua tính theo âm lịch có trùng nhau không?
Tú suy nghĩ một lúc rồi reo lên:
– Em nhớ ra rồi! Tính theo lịch âm thì hôm qua đúng là ngày thằng giặc lái nhảy dù xuống Bù Cheo. Cũng chính là ngày giỗ của chú Kiên nên lão Đốc mới lặn lội lên đây thắp hương cho người đã khuất. Có lẽ vì lương tâm lão cắn dứt chăng? Hèn gì chiều qua lúc gặp lão, nội mình hỏi đi đâu về, lão bảo vừa sang bản Pang mua mấy ấm thuốc chữa đau gan.
Tuấn Minh phấn khởi nói:
– Mọi chuyện như vậy là đã sáng tỏ rồi. Việc cần làm bây giờ là phải tìm cách để tự lão nói lên sự thật. Tiếc quá! Biết thế này bọn mình mang theo một bó hương. Nhưng thôi, đã có cách rồi. Mình gọi hồn cho chú ấy cũng được!
– Gọi thế nào anh?
– Hai anh em cùng đến bên bờ vực, gọi thật to tên chú ấy lên! Tuấn Minh ấn máy ghi âm – Nào, bắt đầu nhé!
Cả Tuấn Minh và Tú cùng ngửa mặt lên trời, la thật to:
– Chú Kiên ơi!
Sau tiếng gọi thống thiết của hai thằng, ba bề, bốn bên đại ngàn cùng râm ran đáp trả:
– Ơi, ơi, ơi…
8
Đi làm về, theo thói quen Hoàng Mai phóng xe lại đầu hồi, tắt máy, đạp chân chống, dựng chiếc Min cạnh cây quế rồi mới quay vào nhà. Bất chợt nhìn thấy chiếc xe thùng màu trắng, bên hông in dòng chữ Cảnh sát hình sự màu xanh đậu lù lù giữa sân, Hoàng Mai hốt hoảng dừng lại. Gã định lên xe nổ máy tháo chạy thì từ trong nhà ba bốn sắc phục màu vàng của công an bất ngờ lao ra, chia súng vào ngực gã quát:
– Hoàng Mai, không được chạy. Anh đã bị bắt!
Hoàng Mai chết lặng. Một lúc sau mới lắp bắp nói:
– Các… các anh lầm rồi. Tôi…tôi là Lò Văn Sao!
Một chiến sĩ công an tiến lại, bập cái còng số tám vào hai cổ tay gã, nói:
– Thôi, đừng đóng kịch nữa! Lò Văn Sao đã chết trong vụ đắm đò năm ngoái ở Thác Mạ rồi. Chính mày phải chịu trách nhiệm về cái chết của Sao. Tội mày rất nặng. Tử hình là cái chắc!
Hoàng Mai bủn rủn cả tay chân, lưỡi líu lại:
– Không! Tôi không có tội. Đừng…đừng giết tôi!
Mai vừa la vừa cố sức giãy dụa mong thoát khỏi mấy bàn tay rắn như thép đang xiết chặt của các chiến sĩ công an… Cùng lúc ấy gã mơ hồ nghe tiếng người hốt hoảng vừa lay vừa gọi:
– Anh Sao! Anh Sao!
Hoàng Mai mở mắt choàng tỉnh dậy. Thì ra gã vừa trải qua một giấc mơ hãi hùng. Lả ngồi bên giường, vừa lau mồ hôi trên gương mặt tái nhợt của gã vừa hỏi:
– Anh mơ thấy những gì mà la hét khiếp thế?
Gã nói lãng đi:
– Anh mơ gặp cướp! Khiếp quá. Chúng nó lột hết tiền còn định giết anh để lấy cái xe. Em lên từ lúc nào thế?
– Em vừa lên. Đang ngồi trên nhà nói chuyện với bố mế thì nghe tiếng anh la hét nên vội chạy xuống. Cô giáo nhìn gương mặt nhợt nhạt của gã, lo lắng – Hôm nay trông anh phờ phạc thế nào ấy. Nếu thấy trong người không được khỏe thì ở nhà nghỉ vài hôm cho lại sức rồi hãy đi làm.
Gã vịn tay cô giáo, ngồi dậy:
– Anh không sao đâu. Sáng nay chạy một cuốc chở ba nười từ Bù Đồn xuống Khe Mục nên hơi mệt chút thôi mà! Gã nhìn đồng hồ – Chết, đã hơn một giờ rồi kia à? Chiều em có phải đi đâu không?
– Em ghé qua trường một lúc rồi về ngay. Anh cứ nằm mà nghỉ, cơm nước để đấy em nấu cho. Cô giáo nói rồi với cái nón đội đầu, ra sân dắt xe xuống đường.
Hoàng Mai ra cửa đứng nhìn theo bóng Lả. Trong lòng gã bỗng trào lên một nỗi lo sợ mơ hồ. Nếu một ngày nào đó gã bị công an bắt đi thật thì tất cả những gì gã đang có trong tay, từ cửa nhà, tiền bạc đến người con gái nết na và hiền thục kia đều sẽ phải để lại để sống cuộc sống của một thằng tù trong bốn bức tường của trại giam. Nỗi lo sợ mơ hồ ấy ám ảnh gã bắt đầu bằng sự xuất hiện của thằng cháu nội già Núi sau hôm gã lên trại rừng của già đặt mua mấy khối bạch đàn để chuẩn bị chuyển cái trống đồng giấu trong Hang Dơi về thành phố. Ma xui quỉ khiến thế nào mà cái thằng ranh ấy lại có gốc gác người vùng này. Không biết nó đã nhận ra mình chưa? Nhà nó ở cách nhà gã chỉ có một con phố. Ngày gã bỏ trốn nó đang học lớp chín, giỏi lắm năm nay cũng chỉ mới hết lớp mời là cùng. Chắc chắn là nó không thể biết mình. Nhưng có một điều gì đó làm gã vẫn thấy hết sức lo ngại sau hôm tiếp xúc với nó. Biết đâu mọi bí mật của mình lại bị phơi bày ra ánh sáng vì sự xuất hiện của nó ở cái xó rừng này! Ngày còn đi học gã rất ham đọc truyện trinh thám. Nhiều vụ án bị phát giác từ những chi tiết rất bình thường. Hoàng Mai chỉ còn biết tự nhủ mình phải hết sức đề phòng, tránh không tiếp xúc, trò chuyện với nó và làm việc cẩn trọng hơn. Nhưng nỗi lo như một bóng đen vẫn cứ bám theo làm gã ăn không ngon, ngủ không yên. Cho đến hôm nay thì một giấc mơ kinh hoàng đã chen vào giấc ngủ trưa của gã. Có lẽ nào đây chính là điềm gỡ được báo trước? Gã tự hỏi mình có nên tiếp tục cuộc sống dưới cái lốt của thằng em song sinh, một thanh niên dân tộc có tên Lò Văn Sao hay sớm tìm đường cao chạy xa bay hoặc là ra đầu thú với nhà chức trách? Bỏ chạy lúc này thực tình gã không muốn vì chắc chắn nếu biết rõ mọi chuyện Lả sẽ không bao giờ đồng tình và theo gã. Mà lúc này thì gã không muốn xa người con gái Thái hiền thục mà em trai mình đã chọn. Nếu đầu thú thì người ta sẽ xử mình như thế nào? Chắc là không nhẹ vì ngoài cái tội làm con dấu giả tiếp tay cho bọn tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng bị công an truy bắt, từ ngày lên đây sống dưới cái lốt người thanh niên dân tộc Lò Văn Sao gã còn phạm thêm mấy tội nữa, mức độ cũng nguy hiểm không kém cái tội đã gây ra ở thành phố. Lại còn cái chết của Lò Văn Sao nữa. Liệu người ta có tin việc em trai mình bị thiệt mạng là do sơ suất lúc cứu người hay sẽ trút mọi tội lên đầu mình đã cố tình nhân việc đắm đò giết Lò Văn Sao để đánh tráo giấy tờ tùy thân? Tình ngay, lý gian! Sự thật chỉ có một mình mình biết, lấy ai làm chứng cho sự trong sạch của mình! Chưa bao giờ Hoàng Mai đứng trước một bài toán khó giải như vậy. Gã lại giường, gieo mình nằm vật xuống, vòng hai tay gối đầu, hai mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà nhớ lại những năm tháng đầy ắp những sự biến đã diễn ra trong cuộc đời mình…
ĐÀO HỮU PHƯƠNG
(Còn tiếp)