Củi quê trong miền ký ức tuổi thơ – Tản văn của Diệp Linh

Vanvn- Những ai sinh ra và lớn lên ở vùng thôn quê dân dã ắt hẳn biết đến củi quê. Bây giờ, củi quê dần hiếm hoi ít người sử dụng dù cuộc sống có hiện đại với bếp gas, bếp điện, bếp từ,… nhưng với người con từng sống xa quê như tôi thì củi quê vẫn âm ỉ cháy trong lòng những ký ức sâu sắc về một thuở cơ hàn.

Tôi nhớ hồi nhỏ, nhà nào cũng có cái cự củi chất đầy ở sân trước hoặc ở cháy bếp hiên sau. Củi đa dạng, phong phú lắm. Đó có thể là cây cà na, cây gòn, cây tràm, cây bạch đàn,.. hay bất kì loại cây gì cũng có thể chặt khúc, chẻ ra rồi phơi khô đều gọi là củi quê.

Tác giả trẻ Diệp Linh ở Long An

Những tháng ngày tuổi thơ tôi êm đềm bên cha má ở vùng sông nước miền Tây Nam Bộ, đến nghỉ hè là bám theo cha đi kiếm củi, có khi đến nhà nào nhà nấy đã lên đèn cha mới chịu chóng xuồng về nhà. Cha vác lên bỏ đống trước sân nhà, chờ nắng lên phơi ráo, cha bắt đầu chẻ củi. Nhớ thương làm sao ngày xưa cha tôi từng nhọc nhằn với công việc này. Người nhà quê có tính lo xa, cha tôi cũng không ngoại lệ. Vì vậy, mà trong chái bếp nhà tôi luôn đầy ắp củi khô, không thiếu cho má dùng để nấu những món ăn đậm đà tình quê cho chúng tôi.

Má còn kể thời xưa, trai trong xóm muốn cưới được vợ phải qua “thí công” chẻ vài thước củi, mà thường là củi tràm còn tươi do đàng gái chọn để tỏ lòng kiên trì và chứng minh sức khỏe của chú rể tương lai. Mà củi tràm tươi chẻ cũng “trần thân” vì nặng và khó chẻ. Cha cưới được má cũng nhờ việc chẻ củi này.

Nhớ hoài từng lời má dặn, từng cự củi trước sân hay sau chái bếp, phải sắp ngay ngắn, củi nào chất theo loại ấy. Những cự củi ở ngoài sân thì phải chuẩn bị sẵn tấm mũ đậy khi trời đổ mưa. Đó còn là biểu hiện tính khéo léo, tỉ mỉ của người nội tướng trong nhà. Hễ trời mưa là má réo chúng tôi “Nhanh về đậy củi phụ má coi!”.

Tranh của họa sĩ Nguyễn Anh Đào

Tôi hào hứng chạy đậy củi cho má, đậy xong sẵn dịp tôi cùng bọn trẻ trong xóm được một trận tắm mưa cùng biết bao trò vui trong miền ký ức tuổi thơ. Chúng tôi chơi trò trốn tìm, hay núp sau các cự củi khô má chất đầy,  mấy đứa con trai lẹ chân trèo lên cây cà na gốc bự ngồi thu lu. Bắt được con cá rô, con cá lóc đồng từ trong ruộng hay mương nước gần nhà, tôi cùng lũ bạn đem về hí hửng chất củi khô thành hình tháp nướng trui cá. Khi mùi thơm cá chín tỏa khắp nơi, chúng tôi lại chia nhau ăn. Chắm cùng muối hột hoặc nước mắm nguyên chất thì ngon không gì bằng. Tôi còn nhớ cái trò nấu cơm bằng lon sữa bò bắt lên ba cục gạch ống rồi đốt bằng mấy đọt cà na khô. Gặp lúc củi còn ẩm thì khói xì ra mù mịt làm chúng tôi chảy nước mắt nước mũi tèm lem. Vậy mà vui, cơm chín thì tranh nhau ăn.

Nhớ mỗi khi nhà có đám giỗ, cả xóm xúm lại gói bánh tét, bánh ít, đổ bánh bông lan, làm bánh bò để thiết đãi khách ngày chính giỗ. Vậy là củi quê đem ra trưng dụng, cháy đỏ rừng rực ngày đêm. Đám con nít chúng tôi, đứa xin miếng nếp, đứa mèo nheo lấy cục bột nắn nót, vo tròn bứt lá tre gói lại cho vô nồi bánh rồi ngồi tụm năm tụm bảy chờ bánh chín. Vừa ăn vừa hít hà vì nóng. Miền ký ức ấy, tôi lưu giữ trong chiếc hộp nhật ký tuổi thơ, để mỗi khi nhắc về trên khóe mắt  lại rưng rưng.

Bây giờ, nhà nào cũng có nồi cơm điện, bếp gas, bếp từ,… nhưng riêng nhà tôi lối sống “người nhà quê” vẫn duy trì thường xuyên bên cạnh vật dụng hiện đại, cha che một chái bếp nho nhỏ để chất đầy củi khô. Những hôm chúng tôi trở về nơi an trú bình yên má lại lấy cái cà ràng cũ chụm củi khô nấu nồi cơm còn thơm nồng mùi lúa mới. Tôi không ăn phần cơm trắng bên trên mà tranh nhau ăn phần cơm cháy dưới đáy nồi vì theo tôi đó là phần cơm ngon nhất. Và quan trọng, có niềm vui nào bằng khi cả nhà quây quần ăn một bữa cơm quê đong đầy yêu thương. Gia đình cùng nhau cười đùa rôm rả những câu chuyện vui bên tách trà thoang thoảng hương sen. Đó chính là nét mộc mạc, bình dị của “người nhà quê” nơi thôn dã.

DIỆP LINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *