Lắc lư cùng Văn Đắc

Vanvn- Ông Văn Đc quê Thanh lúc nào cũng đủng đỉnh mt chiếc túi th cm lắc lư bên mình như báu vật. Tôi nói đùa “túi thơ lưng lửng đi khắp thế gian”. Ông cười hiền đáp: “Nhà ngươi cứ trêu ta”. Qu tht, cái lắc lư ấy c ám vào tôi v mt hồn người, hồn thơ.

Nhà thơ Văn Đắc  

Nhà thơ Văn Đắc trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, đến nay tuổi ngoại bảy mươi mà sức cống hiến xem ra còn “trường” lắm. Ông làm thơ và cũng viết cả lý luận phê bình nữa. Đọc rồi suy ngẫm từ chuyện nhỏ, chuyện to, chuyện xưa, chuyện nay,chuyện riêng một người,chuyện chung của làng văn nghệ, những cảm nhận về thơ bạn bè, đồng nghiệp, anh em… đều được ông nhìn nhận, đánh giá, phản ánh dưới con mắt “có tình”, hóm hỉnh, được nhiều sự đồng cảm. Là một người viết lý luận không chuyên, ông không quen dùng “học thuật nọ, khoa học kia”, ông viết bằng nhãn quan của một nhà thơ gần gũi, sát thực, giàu liên tưởng. Đọc thơ ông, bài viết của ông người ta thấy ít nhiều nhận được sự động viên, khích lệ, thấy mình được truyền lửa đam mê. Ông cứ đủng đỉnh, lắc lư; nói, làm và lôi kéo được mọi người đến gần mình mà tận hưởng, mà sẻ chia.

Mới đây, ông xuất bản tập thơ chọn có tên: Thơ Văn Đắc. Tôi lại có dịp được “thưởng thức” cái lắc lư, say đắm của thơ ông như một nét riêng không trộn lẫn. Ông đã in dấu ấn của mình vào thơ, đã gọi được tên cho thơ, đó là điều không phải ai cũng làm được! Dẫu rằng, đôi người vẫn bảo “thơ Văn Đắc chưa đi đến cái tận cùng”, “thơ còn điệu đà, làm dáng, làm từ”… Tận cùng là đến đâu? Mà thơ bao giờ là đủ, mà đủ đã là để chín, để thăng hoa, để làm chủ ngôn ngữ, để “bao con tim” phải rung lên tự “dày vò” mình. Văn Đắc là người có nhiều kỳ vọng, đôi lúc cũng không tránh khỏi chỗ nọ, chỗ kia; từ ngữ chưa sang; chưa mới… xem ra cũng là thói thường của kẻ hào hoa. Nhưng có được tiếng bấc, tiếng chì Văn Đắc “nuốt vào bụng”, ngào trộn thành đa mê, thành tiềm thức mà hoàn thiện hơn! Nên đến tuổi “nghỉ ngơi” rồi mà thơ ông vẫn như còn quậy cựa, bật chồi; vẫn trẻ trung, say đắm hiếm gặp.

Lần mở trang đầu tập thơ là bài thơ Làng sơ tán. Bài thơ đạt giải Báo Văn Nghệ năm 1969 -1970… cho đến giờ mỗi khi đọc lên ta vẫn thấy lòng lạc quan nhân lên gấp bội:

Mt túp lu con

Sơ tán

Nhiu túp lu con

Thành làng sơ tán

Gic b bom ngang

Ta xây làng dc

Gic b bom dc

Ta dng làng ngang.

Niềm lạc quan ấy gửi vào sự hồn nhiên của trẻ thơ, gửi vào câu hát, gửi vào vì sao, gửi vào tiếng kẻng:

Trận địa ca mẹ đây

Cháu nh tri nong trên đê nằm đếm vì sao hát…

Kìa mẹ ơi

Bom M lại đến ri

M khua kng dài hơn làng sơ tán

T trận địa ca ta vút chéo lên tri thẳng căng đường đạn

Trên tri quê ta

Máy bay M cháy…

Trước ca lu sáng lóa đóa trăng.

Không có bông hoa nào, không có huân chương nào cho mỗi chiến công, chỉ có ánh trăng là bầu bạn, là chứng nhân, là sự sẻ chia, chứng kiến mọi khó khăn và cùng con người lạc quan, hy vọng, hân hoan. “Đóa trăng” luôn hiện hữu trước “cửa lều” của làng sơ tán như niềm tin cách mạng luôn soi đường chỉ lối cho tiến bộ, cho điều thiện trước cái ác, cho sự dung dị, nghĩa nhân trước phấn son, cường bạo mà làm nên bản lĩnh con người, vóc dáng một dân tộc. Bài thơ đã đi vào lòng người từ những ngày đánh Mỹ, đến nay đọc lại vẫn còn lay động, vẫn còn sức sống riêng. Và tôi như đã nhìn thấy một cái lắc lư của con người có tâm thế, lạc quan, làm chủ được hành vi và biết “gieo giắc” niềm tin đến người khác.

Văn Đắc có cá tính rất tự nhiên trong đời thường. Có lẽ, cái nghề giáo “trang nghiêm “một thời trong đời ông trộn vào cái “lắc lư” thi sỹ trời cho mà “gột” nên hồ trong bay bổng thơ ông: “Nhà tôi nim vui bn rn/Cái ghế làm con tàu/ Cái bàn thành bến cng…/ Tiếng cười m ra ngoài đường/ Nước mt gói vào vt áo /Nhng ngày mưa mây xuống bc cầu/ Tường cũ loài rêu xây cung điện/ Lm lúc bun vui/ Kéo c dãy Trường Sơn về ở/ Đất nước hình như cũng ngồi trong đó/ Trái đất quay đúng ch tôi ngi”. Cái tôi của Văn Đắc giao thoa, hòa hợp đến kỳ lạ; một chút khoát đạt, một chút cô đơn, một chút bộc trực, nóng nảy bốc đồng, một chút vội vàng, kiêu kỳ, ảo vọng… cứ nhấp nhổm như muốn trộn lẫn, như muốn khác biệt làm nên hình hài, mà nâng đỡ, nuôi lớn khát vọng không gì cưỡng nổi. Bởi thế dẫu đi được đến tận cùng đất nước hay chỉ ngồi tại nhà mình thì tấm lòng cũng hướng ra “bến cảng”, “con tàu”… Con người biết chịu đựng “Nước mt gói vào vt áo”, biết chia sẻ “Tiếng cười m ra ngoài đường”, cái tôi từ bóng đêm bước ra không lạ lẫm với nắng trời! Ông tự ý thức: “Tôi như ngọn đèn ai thp t ngàn xưa”, rồi “Kéo c dãy Trường Sơn về ở” để đến khái quát, tự tin hơn “Trái đất quay đúng ch tôi ngi”. Có kiêu quá chăng? Văn Đắc đang lắc lư? Đang ngạo nghễ? Đang lo âu trước vũ trụ thơ không dừng lại?

Thi sĩ làm thơ cho mình cho đời, Văn Đắc dẫu có trải lòng đến mấy với sông Hương “dằng dặc Huế bên lòng” thì cũng để (có thể vô tình hay hữu ý) cho một chút ngông thi sỹ mà giấu đi cái mềm lòng, yếu đuối trước mỹ nhân: “Khách tiêu giao là ta/ Khách giang h là ta” (Một lần Huế). Hay trong bài “Lại đến mùa xuân”:

Em ơi, mùa xuân

Bin biếc ngàn năm em cũng không ngờ

C xanh thế để làm con tr

Để gió v bờ em đậu ng

Mt tri lên như quả chín cây bum

Ngn núi hóa măng non

Mái chùa thành búp lá

Miếng trầu vườn hai h hn trao duyên

Hay:

Tôi như thuyền gác bãi dây neo

Bao mn chát thm tràn vào th g

Tr li bin nhng mùa xuân sóng gió

Xin đừng ai khua động mái chèo

Rạo rực là thế, mà nỡ cầm lòng nuốt theo tĩnh lặng! Có mâu thuẫn chăng với cái lắc lư kia: “Lặng yên nhìn trong cát tiếng trăng reo“. Sự giằng xé, sự dày vò phải chăng là rễ, là nguồn để làm nên vầng trán thơ ông! Cha mẹ xưa đặt tên cho ông là Nguyễn Tiến Tới, hẳn mong ông sau nay phát triển bằng người. Khi đến với văn chương ông lại đặt bút hiệu cho mình là “Văn Đắc”. Cái tên dễ nhớ, dễ gần và cũng gợi. Cái tên đó hợp với con người ông, hợp với văn ông bởi cái “sự Tâm, sự Đắc”; yêu đời và cũng muốn được đời yêu, nó vận vào ông, hình như có sự chi phối nào đó từ cả cách cảm, cách nghĩ thơ ông mà lay động hồn người:

Ta ln khi tui ta

Tìm lại vườn tui tr

Nàng ào đến ta như cơn gió bin mùa h.

Có lúc ông li t giu mình:

V mình không nh

Đi nhớ người ta

Già cóc củ đế hóa ra di kh

Đêm nằm trăn trở

Ngày đi gật gà

Nghe gi hn vía t ngàn kiếp xưa

Con mt nh tí ra điu bao la

Ca ci thiên hạ đòi mang v nhà

Rng núi bước qua sông bể bước qua

King chân trên đất hái trăng làm quà

(Chân dung)

Ông cứ lắc lư,an nhiên, tự tại, tạo vật quanh ông hình như cái gì cũng nhỏ bé nằm trong tầm tay với, để ông có cớ mà giấu đi cái xung đột lòng mình: “King chân trên đất hái trăng làm quà”.

Bài thơ Làng ơi thêm một bức tranh Văn Đắc tự họa chân dung mình không cần chú thích: “Lm lúc tôi đi trên đường làng/ Bn tr hò reo: A, Ông Đc. Ông Đc/ Thế là cái tên thành tiếng hát/ Bn nh làng ơi bạn nh làng/ Lm lúc tôi im lỳ như đống rơm/ Cứ óng với trăng vàng trăng bạc/ Có c già vò tôi tâm sự/ Đến bây giờ hương lúa vn còn bay/ Tôi đang làm quả chín ca làng đây/ Bọn tr ln lên c già đi vãn hết/ Có con chim nh mùa, tìm ht/ Nhn ra tôi ngơ ngác lá trong vườn”. Cái lắc lư như tỉnh, lại như động, như tiếng chim trong vườn lá thắm: “Tôi đang làm quả chín ca làng đây”.

Chuyên đề Văn học xứ Thanh:

>> Chùm thơ Mai Hương: Giữa ngổn ngang chữ nghĩa

>> Nhà văn Kiều Vượng với trường đại học Hồng Đức

>> “Màu tím hoa sim” – Bi kịch của Hữu Loan

>> Cảm nhận khi đọc “Mạch ngầm con chữ” của Thy Lan

>> Chùm thơ Anh Dũng: Ăn sương muối gội sương mai

>> Linh hồn xứ Thanh

>> Những đặc sắc của văn học Thanh Hóa

>> Nhà thơ Lâm Bằng với miền biên ải xứ Thanh

>> Chùm thơ Sơn Ca: Em chẳng muốn tình yêu là lửa nhỏ

>> Những nét tinh hoa văn hóa xứ Thanh

>> Nhà thơ Huy Trụ – Lòng như suối cạn sao đành với thơ

>> Chùm thơ Phạm Tiến Triều: Thơ vọng hang vang núi

>> Văn Đắc – thơ một cõi tình

>> Ngôi nhà vui vẻ nơi xứ Thanh yêu mến

>> Hữu Loan và những người đàn bà thứ hai

>> Người không đợi trước – Truyện ngắn của Ngân Hằng

>> “Nghệ thuật ca dao” của Minh Hiệu từ cái nhìn đối sánh

>> Chùm thơ Phạm Văn Dũng

>> Có một vùng văn học xứ Thanh

>> Tạp chí Văn nghệ Xứ Thanh – Kết nối tình yêu văn chương nghệ thuật

>> Một cuộc hội ngộ ý nghĩa của văn nghệ Xứ Thanh 

Khi tôi nhận ra (tạm gọi) đặc điểm lắc lư trong thơ Văn Đắc thì bài thơ tôi nghĩ tới đầu tiên là Tôi người Thanh Hoá. Tôi muốn dành nói sau cùng để kết lại một hồn người gắn liền với quê hương xứ sở. Trời Thanh Hóa rộng dài: “Phía Đông là biển/Phía Bc là dãy Tam Đip/Phía Tây là biên gii Vit Lào/Phía Nam là núi Chẹt”. Nhưng ông đã có sự ví von rất ngạo nghễ:

Tri Thanh Hóa ca tôi là cái vó

Th lúc nào cũng vớt được tôi lên

Và “rặt” một chất quê Thanh: “Đi đâu, về đâu, đến bao gi/ Tôi không ln vào ai được”. Chính cái không lẫn vào ai mà vẫn nguyên xi chất người Thanh Hóa là cả một sự thủy chung mới có được: “Tôi người Thanh Hoá/ Cái khuôn đúc sn ca trời/ Đã xoay đ cách vn tri tôi ra/ X này va tht, vừa mơ/ Rất người mà rt “bay choa” mi tài”. Và cái hồn quê đọng lại ở điều bình dị nhất: “Rưng rưng rau má ng li/ Xa quê nh ly nét người k quê… Rau má là tôi là anh/ C xanh mt lá hin lành là ta”. Và còn đặc trưng hơn nữa trong tiếng cười: “Thích bông lơn kiểu Trng Qunh/ Thích nghênh ngang kiu anh hùng x Thanh/ Thích thì vác đá xây thành/ Uất thì chc thng tri xanh mà cười/  “Lành làm gáo, v làm môi”/ Rượu suông rt dễ động tri mà say”. Tính cách đó người xứ Thanh ai đọc cứ tưởng nói mình, lại ngồi một mình cười tủm: “Cái ông Đc này nói sao mà trúng thế!”. Người quê Thanh thẳng thắn, bộc trực cũng lại hay bị mếch lòng nhau vì nói thẳng nên “Rượu suông rt dễ động tri mà say“. Câu thơ đầy ẩn ý, nói được nhiều điều.

Lạc quan là thế nhưng ông thi sĩ cũng nhiều lúc không tránh khỏi nỗi buồn. Nhất là khi rơi vào trạng thái cô đơn; “Tự làm bến ri t làm khách hn/ Díu dan ch dan díu mt mình”(Tự cảm). Bởi vậy, có lúc ông thấy bơ vơ giữa hai bờ hư thực: “Như là hn và như là lỡ hn/ Tôi cứ đi như một k si tình”. Hoặc có khi ông lại chơi vơi trống rỗng trong lòng như bị ai rút ruột: “Cái ni muôn đi thi sĩ/ Luôn có cuộc đưa tang trong khoảng trng tâm hn”. Nhất là khi không tìm được sự đồng cảm cho thơ:“Thơ là thứ vu vơ nhất/ Không có ai chơi thì thơ chết mất” (Đêm vu vơ).

Văn Đắc lạc quan là thế, lắc lư là thế nhưng là cái lắc lư gắn liền với thế sự,con người, cuộc đời. Thậm chí cụ thể hơn là dòng sông, con thuyền, bông hoa, chiếc lá… hay người già, trẻ nhỏ… Trong bài thơ Trần đời ông viết để lên án những kẻ bạc ác, chà dạp lên tất cả, mất hết nhân tính, nhân tình: “K mua bán chức danh được nêu gương đạo đức/ Gi nghĩa gi nhân ra b hin tài..”. Như thế thì theo ông cũng chuốc lấy thất bại “Kh nhân tính trời chu đất dit” chỉ có yêu người mới được người yêu.

Mặc dù có rất nhiều ưu thế về ngôn ngữ, về cái nhìn sắc nhọn, tâm cảm, suy tư về tình yêu mới và lay… Nhưng có lẽ vẫn cần hơn ở ông ngoài cái “lắc lư’ hiếm gặp kia, một sự ngất ngư, đắm đuối, tận cùng hơn để thơ “chín” hơn và thoả mãn nhiều khát khao của người đọc dành cho ông. Đúng như khát vọng mà ông thường chia sẻ với bạn đọc: Đã ủ men thơ nên cứ muốn “say cho đến muôn đi còn say”.

Viết về ông Văn Đắc và thơ ông đã có nhiều người quan tâm, làm thơ, viết lời bình, tản mạn… thậm chí nghiên cứu cả công trình sách gần trăm trang. Tôi thì chỉ góp đôi điều suy nghĩ để nói thêm về một hồn thơ, một hồn người, nhất là căn nguyên sâu xa, đặc tính sáng tạo, tạo nên phẩm chất thẩm mỹ “lắc lư” của thơ ông. Trong đó, tôi muốn dành lời kết bài viết này nói về xứ Thanh, nơi gắn bó trọn đời của nhà thơ Văn Đắc. Nơi đây đã thấm đẫm, ngấm vào ông – Một chút thanh lịch một thời từng là kinh đô, tâm tính pha chút gió Lào bộc trực dải đất miền Trung; một xứ còn đậm đặc dấu tích những địa tầng văn hoá, một xứ có vua, có chúa, có trạng; một xứ mà cây rau má nhỏ thó, yếu mềm, lăn lóc – hóa sâm mà dưỡng những hồn thơ. Của trời cho đó! Cứ thế, cho ông cá tính sáng tạo; cứ thế nhào nặn thơ ông.

THY LAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *