Vanvn- Hướng tới Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ X, Vanvn.vn xin giới thiệu một ứng viên đến từ Bắc Kạn, một cây bút văn xuôi giàu triển vọng ở vùng cao Đông Bắc Bộ với những truyện ngắn mang “vía của rừng”. Đó là Triệu Hoàng Giang sinh ngày 20.5.1989 ở Bắc Kạn, hiện làm việc tại Hội VHNT tỉnh Bắc Kạn, đã xuất bản 2 tập truyện ngắn: Chim dón dâu, Nghiệp rừng và nhận các giải thưởng văn học: Giải nhì Giải thưởng sáng tác văn – thơ – ca khúc Bắc Kạn lần thứ I, Giải C Cuộc thi Sáng tác VHNT về đề tài “Bắc Kạn xây dựng nông thôn mới” lần I.

Hoa lửa
Ngày Phiêng Kham mới chỉ có vài nóc nhà gianh, khi ấy đàn ông Dao còn nhỏ đã biết cầm búa lên rừng đốt than, tự rèn những con dao thật vừa tay, thật sắc, người khéo tay hơn có thể tự làm những khẩu súng săn. Những đêm trước mùa phát rẫy, những đêm sau mùa vun ngô và cả những lúc nông nhàn Phiêng Kham đều rực sáng ánh lửa từ những lò rèn. Những đêm ấy cả bản đều thức muộn, lũ trẻ háo hức chạy nhảy, đàn bà ngồi nói chuyện về mùa vụ mới, tay vẫn đang thêu những tấm áo cho riêng mình. Phía lò rèn ánh lửa sáng rực soi rõ mặt của những người đàn ông, soi thấy cả những giọt mồ hôi còn lẫn cả bụi than. Ánh lửa ấy đã trở thành những bông hoa đỏ rực đang dần thành hình trên chiếc áo của người đàn bà Dao đỏ.
***
Sáng sớm ông Tài Minh vác búa men theo con đường đi lên đỉnh Đin Ba. Đã gần đến vụ mùa rồi, nhiều cái bai, con dao ở Phiêng Kham sẽ lại cần đến ông rèn lại chuẩn bị cho vụ mới. Trên lưng chừng đồi là cây Thồ Lồ đổ từ trận gió năm ngoái đã được ông chọn sẵn, mấy ngày trước ông đã lên đào được cái hố to để ủ than. Hôm nay xem tiết trời tốt nên ông quyết định đi đốt than. Từ chiều hôm qua khi đàn lợn đi kiếm ăn ục ịch nhấc từng bước chậm rãi về chuồng ông đã cẩn thận chuẩn bị mọi thứ, cái búa, con dao đều được ông mài kỹ. Thấy lạ, đàn gà đang chuẩn bị lên chuồng cũng ngó nghiêng đoán chừng tối nay ai sẽ thoát kiếp bới đất tìm giun. Con chó đen thông minh hơn, nó biết chắc rằng mai sẽ được cùng ông chủ đi rừng nên chẳng lộ vẻ gì cả. Tối hôm ấy, ánh trăng sáng lắm, không nhìn thấy một bóng mây trôi trên đỉnh Khâu Săm. Khắp cả Phiêng Kham không có tiếng gì át nổi tiếng người. Tài Minh nheo mắt mãi cũng chỉ nhìn thấy những đốm lửa nhỏ ánh lên từ bếp của những ngôi nhà phía xa xa. Sáng sớm nay, khi gà mới gáy lần ba, Tài Minh đã dậy tự tay nấu cơm, chẳng gọi vợ dậy như thường lệ. Như hồi trước, Tài Minh cũng không dậy sớm như bây giờ, mấy năm nay sức ông xuống nhiều rồi. Con dốc Đin Ba không còn leo một mạch được nữa nên ông phải dậy sớm hơn. Thấy vợ vẫn đang ngủ được ông không muốn đánh thức, bao năm nay có bao giờ vợ ông dậy sau ông đâu. Tài Minh muốn vợ ngủ thêm chút nữa, nếu có thể ngủ đến lúc ông đến chân dốc Đin Ba ông cũng không trách. Thế mà khi cơm mới sủi bọt đã thấy bà im lặng ngồi cạnh ông.
Đến nơi ông dừng nghỉ châm tẩu thuốc, ngắm nhìn gốc cây thồ lồ hôm trước con trai ông và bạn nó đã mất gần một ngày công lên giúp bố cưa thành từng khúc ngắn. Công việc hiện của ông ngày hôm nay chỉ là đốt đủ số than cần dùng.
– Chà chắc phải mất một ngày rồi đây.
Ông tự nhủ mình rồi bắt đầu công việc. Mới đầu sáng mà khu đồi Đin Ba đã ngập tràn tia nắng. Những khoảng rừng hở không che nổi cái nắng gay gắt. Phía sườn đồi có nhiều cây hơn, chim đến tìm quả rừng ăn, những tiếng hót của cu xanh, chào mào… vang khắp khu đồi. Mấy năm nay Phiêng Kham không còn phá rừng làm rẫy nữa, lũ chim đánh hơi được sự yên bình mới chịu quay về. Mới đầu mùa xuân năm ngoái, cả bản mới lại thấy chim đón dâu bay chập chờn quanh những bờ rào các nhà. Người già đều vui, trẻ con hò reo chạy theo sau hệt như tết đã đến.
Khi trời đã đổ chiều, mặt trời cố nán lại chút ánh sáng để giục ông về cũng là lúc cái hố than đã được lấp xong. Khuôn mặt đầy bụi than đen sạm của ông ánh lên sự mệt nhọc nhưng không giấu nổi đôi mắt vui. Vậy là chỉ cần đợi vài ngày nữa thôi, sẽ có đủ than cho cả bản cán lại dao, sửa lại bai để đi nương. Chắc mùa vụ năm nay nhiều nhà sẽ cần đến ông lắm vì năm ngoái ông bị ốm nặng không sửa được cho nhiều nhà.
* * *
Những ngày này đang vào mùa nông nhàn, bản Phiêng Kham chỉ có lò rèn của ông Tài Minh là nhộn nhịp người qua lại. Những chiếc bai bị mẻ, những miếng sắt chưa thành hình… đều được mang đến cho ông. Từ sáng đến tối, lò rèn không lúc nào vắng tiếng người, người không biết làm thì đến xem ông làm, người biết làm ít cũng tự sửa cái của nhà mình, cái nào làm chưa tốt mới nhờ đến ông. Cái đe, cái búa cứ kêu mãi không thôi. Khi trời mờ tối, ánh lửa soi rõ từng khuôn mặt Tài Minh, những nếp nhăn trên trán không ngăn nổi mồ hôi chảy xuống khóe mắt. Khi mọi việc xong xuôi, Tài Minh định dọn dẹp chuẩn bị nghỉ thì nhìn thấy miếng sắt của Văn Sinh.
Mới sáng sớm nay khi mọi người chưa ai đến, ông Văn Sinh đã đến lò rèn khi Tài Minh mới mồi lửa. Cầm trên tay miếng sắt lớn hơn hai bàn tay một chút Văn Sinh hỏi người bạn già.
– Mày xem có rèn được cái bai bé không, tao già rồi không dùng được mấy cái to ở nhà nữa.
Miếng sắt bé như vậy chỉ có thể làm cái bai bé cho trẻ con muốn tập đi rẫy cùng bố mẹ. Tài Minh định xua tay làm cái khác tốt hơn nhưng nhìn những nếp nhăn trên khuôn mặt người bạn già, Tài Minh bỗng thấy thông cảm. Bao nhiêu năm nay cả hai ông cùng gắn liền với Phiêng Kham, những buổi đi săn, những bãi nương phát cạnh nhau đều đã thành quá khứ. Giờ ai cũng lên chức ông nhưng tình bạn vẫn không thay đổi. Cùng thế hệ Tài Minh có ông Kim Sân là thầy giỏi nhất Phiêng Kham, ông Pú được người ở khắp nơi đón đi thổi kèn trong đám cưới, đám ma… nhưng Văn Sinh chẳng giỏi nghề gì, nhà có hai thằng con trai, con cả nghiện rượu, lấy được vợ mấy năm thì vợ bỏ đi để lại đứa con, thằng thứ hai chẳng mấy khi ở nhà, chỉ thích xuống phố huyện chơi với những người bạn tóc xanh, tóc đỏ. Tài Minh quý Văn Sinh, cũng thương cảm cho bạn, thịt con gà, có được miếng ngon đều cho con xuống gọi bạn lên ngồi cùng. Công việc vất vả, cái đói bám theo nên nhìn Văn Sinh già hơn Tài Minh gần chục tuổi, cái lưng còng kham khổ khiến Văn Sinh chẳng mấy khi ngẩng mặt lên nhìn người.
– Ừ! Để xong mấy cái bai làm dở tao sẽ làm cái bai vừa tay cho mày. Cũng mất khá nhiều công đấy, chiều mày lên đẩy lò giúp tao nhé.
Buổi chiều, khi tất cả mọi việc đã xong, Tài Minh dọn dẹp lại lò rèn, bỗng thấy miếng sắt của Văn Sinh vẫn còn để ở góc ngực ông nhói lên. Thôi chết! cả ngày hôm nay mải làm những cái khác quên mất. Vừa lúc ấy, Văn Sinh lên đang dừng nghỉ ở dưới chân dốc.
– Vào đây! Vào đây! Ngồi uống chén nước chè đã, rồi tao làm cho.
– Có sợ muộn không, hay để mai làm.
– Không sao hôm nay xong hết rồi, mai nghỉ rồi, tối nay làm muộn tý cũng được.
Tài Minh gọi vọng xuống:
– Bà nó thịt cho tôi con gà nhé, tối nay làm muộn để xong việc.
– Nào nào, mày đẩy lò giúp tao nhé.
Trời đã loạng quạng tối, đàn gà lên chuồng ngó nghiêng nhìn qua lò rèn. Lửa trong lò bùng cháy soi rõ hai khuôn mặt già, Tài Minh chăm chú vào công việc của mình. Miếng sắt trên bễ lò đỏ rực, chiếc búa trên tay ông vẫn đập đều đều không có dấu hiệu mệt mỏi sau cả ngày làm việc. Văn Sinh cũng nhễ nhại mồ hôi đẩy lò rèn cho thật đều, thật chậm. Chiếc lò đắp bằng đất cũng đang cố phù phù những làn gió mạnh cho thanh sắt đỏ hơn, nung kỹ hơn. Những tia lửa bay tung khắp nơi tạo nên những chùm hoa sắc đỏ, chùm hoa ấy lan tỏa ánh sáng khắp nơi, người Phiêng Kham ở xa mấy cũng nhìn thấy ánh sáng từ lò rèn của ông Tài Minh.
– Chà! Tài Minh hôm nay làm việc muộn nhỉ?
– Chắc làm cố để ngày mai nghỉ ngơi đây mà.
Ánh sáng của lò rèn chiếu đến tận nhà ông Kim Sân, ông Pú. Hai người già đi những bước chậm rãi tiến về phía lò rèn, khi đến nơi chiếc bai đã thành hình, khuôn mặt Văn Sinh cũng lộ rõ những nét vui. Tài Minh thấy hai người bạn đến chỉ gật đầu mỉm cười, đôi mắt ông sáng lắm, dường như có thể nhìn xuyên mọi thứ. Đôi mắt ấy giờ đang tập trung làm những công đoạn cuối cùng để hoàn thành chiếc bai thật tốt, thật vừa tay người bạn già. Bốn người không ai nó với nhau câu nào, người thì cho thêm than vào lò, người lại múc nước đổ vào chiếc máng, người vẫn miệt mài đẩy lò cho thật đều. Vợ Tài Minh định sang giục chồng lần nữa những thấy vậy lại về chuẩn bị thêm thức ăn.
Buổi tối hôm ấy, bốn người bạn già ngồi uống rượu cùng nhau. Bao nhiêu quá khứ của Phiêng Kham dồn lại. Đã lâu rồi không có một đêm cả bản nhìn về phía nhà Tài Minh như vậy. Còn chút ít than, Tài Minh để đó cho cháy hết, ánh lửa than cháy bập bùng bởi những cơn gió mát từ đỉnh Đin Ba kéo về. Giữa mênh mông của màn đêm sâu thẳm, bông hoa lửa sáng rực chiếu rọi cả một khoảng rộng.

Người say trong lễ quá tăng(*)
– Lên đèn rồi! Lên đèn rồi kìa!
– Nhanh vào xem, kìa bảy đèn là của ông Tài Minh đấy.
– Đẹp quá! Sáng quá!
Tiếng người bàn tán, tiếng kèn Pí Lè, tiếng chũm chọe, tiếng trống nêm rộn rã, ánh đèn tỏa sáng khắp nhà soi rõ từng mặt người, những khuôn mặt vui, những khuôn mặt đăm chiêu, khuôn mặt người già trầm tư, khuôn mặt trẻ con hớn hở, đôi mắt những người con gái long lanh… tất cả đều hiện rõ qua ánh đèn đốt bằng nhựa trám. Nhưng trong một góc tối, nơi ánh sáng những ngọn đèn không chiếu tới có một người gục mặt xuống bàn, đôi tay vung vung vô thức, chốc chốc lại thấy ngẩng đầu lên nghe ngóng rồi lại gục xuống bàn, hắn say hay khóc không ai biết, cũng chẳng ai để ý.
***
– Thằng Sìn lại say kìa!
– Tết năm nào nó chẳng thế!
– Tý nữa nó lại tìm người đánh nhau đấy, năm ngoái nó còn lấy chai rượu tự đập vào đầu nữa.
– Thằng này hỏng rồi!
Bên gốc cây vải to nhất ở So Luồng có một người đàn ông trung tuổi đang dựa vào gốc cây ngủ, bên cạnh có chai rượu trắng vẫn còn một chút ở đáy. Cả So Luồng ai cũng biết hắn, người lớn đến trẻ con đều gọi hắn là thằng Sìn say, tết năm nào Sìn cũng nhiễu khắp bản, vô cớ cũng tìm người đánh nhau.
Ngày trước, Sìn cũng khỏe mạnh như những thằng thanh niên đang tuổi lớn ở So Luồng, nhà nghèo nên đi làm thuê cho mọi người trong bản. Ai nhờ gì Sìn cũng làm, chưa bao giờ hắn lấy tiền công, chỉ ăn cơm cùng chủ nhà, ai cũng quý, ai cũng muốn nhờ vì Sìn làm việc nhanh, làm giỏi. Mỗi lần xong việc người trong bản đều cho hắn một cốc rượu để cảm ơn. Lâu dần, lúc nào trước khi nhờ việc gì hắn cũng phải có cốc rượu, hôm nào không có việc gì làm hắn lại ngồi từ sáng đến chiều lang thang khắp các nhà trong bản. Mỗi lần say hắn nói nhiều lắm, gặp ai cũng bắt chuyện, gặp trẻ con thì dọa nạt, gặp người già lại nói chuyện bậy bạ. Lời nói chẳng vào tai, người So Luồng nhìn hắn bằng nửa con mắt. Lâu dần, sức khỏe của Sìn ngày một yếu đi, vài chén rượu đã say, buổi sáng dậy chưa kịp lấy nước rửa mặt đã khập khiễng đi mua rượu. Đám cưới, đám ma nào ở So Luồng cũng làm chân đun nước, công việc phải ngồi cạnh bếp chẳng ai muốn làm. Thỉnh thoảng chủ nhà cho hắn một cốc rượu, bữa cơm chẳng ai muốn mời hắn ngồi ăn cùng.
Hôm nay, nhà ông Tài Minh bắt đầu lễ quá tăng, ngay từ sáng tinh mơ cả So Luồng đã nhộn nhịp người đi lại, tiếng người gọi nhau, tiếng lợn kêu, cả bản dường như không còn ai ngủ, đám trẻ con cũng í ới giục nhau đi học. Sìn cũng dậy sớm lắm, hắn vừa bước vào nhà Tài Minh đã đưa mắt tìm rượu.
– Mày tìm rượu phải không?
– Ừ!
– Uống xong đi chẻ đuốc làm một cái bếp khác để đun nước, những bếp này đều có việc hết rồi.
– Ừ!
Tay hắn run run cầm cốc rượu, mọi người nhìn cũng quen rồi. Cũng chẳng ai đuổi hắn về được, chính Tài Minh nửa tháng trước đích thân lên tận nhà nhờ về giúp việc. Đâu phải hắn tự ý xuống đây tìm rượu đâu. Từ hôm qua, khi mọi người gọi nhau xuống dọn dẹp nhà Tài Minh, hắn đã nhớ đến việc rồi.
Hai năm nay, ông Tài Minh và anh em trong nhà đã chuẩn bị mọi thứ, đàn lợn sáu con béo núc ních nuôi đã ba năm, gà chăn, gà mua đã đầy chuồng, thóc gạo cùng góp lại chỉ để dùng cho ngày này. Người về dự lễ cấp sắc đông lắm, có cả người ở vùng khác về, nghe nói phải mất hơn một ngày đường. Sẽ có nhiều người ở lại đến hết lễ mới về. Nhà ông Tài Minh nhiều họ hàng, nhiều anh em, nhiều người quen biết, ai cũng muốn đến chúc mừng, ai cũng muốn được thấy lễ cấp sắc bảy đèn. Sìn chạy cả ngày tiếp nước, mồ hôi thấm ướt hết áo, khắp các bàn đâu đâu cũng gọi nước, ông trưởng bếp thi thoảng lại đưa cho cốc rượu để hắn lấy sức, rượu chưa kịp ngấm đã phải chạy đi thêm nước, thêm củi. Cả ngày chạy khắp các nơi đến khuya mới được nghỉ, Sìn ở lại luôn, vợ bỏ đi rồi về nhà cũng chẳng có ai, ở đây đông người, lại có rượu uống. Hắn tìm một góc tối trong nhà rồi lấy bao tải rải xuống đất nằm ngủ, nhiều lần say rượu nằm khắp các bụi cỏ ven đường, các nương ngô, giờ có chỗ thế này hắn đã thấy đủ lắm rồi. Tiếng kèn, tiếng gõ trống, tiếng người cười nói khiến con mắt hắn thiu thiu ngủ.
Ngày Sìn cưới vợ, cũng tiếng kèn Pí Lè, tiếng trống nêm rộn rã, họ hàng cũng đến chia vui đông lắm, ai cũng mừng hắn có được vợ. Bố Sìn vui nhất, công sức đi mấy ngày đường về tận quê cũ ngày xưa mới tìm được cô vợ cho con trai. Ở So Luồng và những bản quanh vùng này, những cô gái đều biết Sìn nghiện rượu, còn ai chịu lấy nữa. Lấy vợ rồi, bố Sìn cũng yên tâm về với tổ tiên khi thằng cháu trai đầu được ra đời. Hồi mới lấy nhau, Sìn cũng thương vợ lắm, lên nương cũng chăm hơn nhưng vẫn không bỏ được rượu. Người vợ chịu khó làm ăn cũng đủ gạo ăn nhưng khi hai đứa con lần lượt sinh ra thì miếng ăn kiếm khó hơn, hắn lại uống nhiều rượu hơn, những trận cãi nhau cũng nhiều hơn. Hôm vợ hắn dắt đứa con gái nhỏ đi, Sìn vẫn đang nằm ở bãi ngô nhà ông Thìn, mãi đến khi thằng con lớn khóc đi tìm mẹ hắn mới tỉnh.
– Dậy! Dậy đi Sìn say! Đun nước cho khách để tý rửa mặt kìa.
Hắn ngồi dậy, dụi dụi mắt nhìn xung quanh, hắn tiến về phía có ánh lửa, ngay cạnh đó có chai rượu uống dở và thùng đựng nước, Sìn tiến lại gần tu hết chai rồi lấy thùng đi xách nước. Bên ngoài trời còn chưa sáng rõ, lũ gà ngơ ngác chẳng rõ ban ngày hay đêm mà nhộn nhịp đến lạ…
Ngày thứ hai, sẽ có nhiều lễ quan trọng diễn ra nên nhiều người đến hơn, Sìn phải đi lại nhiều hơn, đun nước nhiều hơn và uống rượu cũng nhiều hơn. Từ sáng đến giờ không biết hắn đã hết bao nhiêu cốc rượu, dường như mồ hôi của hắn chỉ toàn rượu chảy ra. Những người ở xa đều hỏi về hắn, những ánh mắt nhìn ngang, những cái lắc đầu, tất cả đều sượt qua dáng đi xiêu vẹo nửa tỉnh, nửa say của Sìn. Chỉ được một lát, mọi người lại dồn ánh mắt, lời bàn tán về những nhân vật chính của hôm nay.
– Nhìn kìa, ông Tài Minh mặc quần áo của vợ.
– Cả mấy anh em ông cũng thế!
– Đẹp quá, lạ quá!
Đám thanh niên đem lời thắc mắc hỏi ông Văn Sinh, người già nhất So Luồng, ông giải thích: “Ngày xưa, xưa lắm rồi chỉ người phụ nữ mới được cấp sắc nhưng vì phụ nữ phải chăm sóc con không thể ở ba ngày ba đêm được, lễ cấp sắc chuyển sang cho đàn ông nên bây giờ đàn ông phải mặc quần áo phụ nữ trong lễ cấp sắc”. Đám thanh niên hào hứng tiến lại gần hơn để xem cho rõ, ai cũng muốn sau này cô dâu của mình sẽ được khoác bộ quần áo đẹp như hoa rừng này. Những cô gái cũng long lanh đôi mắt nhìn về phía ấy, có nhiều ánh mắt đã chạm nhau, khuôn mặt ửng đỏ, hệt như hai hàng gầu đỏ rực trước bộ quần áo anh em ông Tài Minh đang mặc làm lễ.
Sìn ngồi nhìn từ xa, lâu lâu lại thấy hắn cúi mặt xuống, hình như cốc rượu vừa uống vẫn còn ngấm.
Ngày cưới, vợ Sìn cũng mặc bộ quần áo đẹp như thế, cũng chuỗi gầu trước ngực màu đỏ sặc sỡ, cũng có những hoa văn nhiều màu trên áo. Đẹp không kém gì những bộ anh em nhà Tài Minh đang mặc. Nhưng bộ quần áo ấy đã theo người lạ về xuôi trong cơn thèm rượu của Sìn. Mấy hôm sau, vợ hắn mới phát hiện thì đã muộn, chỉ có tiếng khóc, không có tiếng chửi. Những ngày sau đó, vợ hắn lầm lũi bên bếp lửa, đôi mắt vô hồn nhìn từng người đang ngồi cười nói với chồng. Mấy hôm ấy, khi có tiền Sìn say suốt ngày, sao mà lúc đó hắn nhiều bạn thế, hình như đi khắp bản đều đến uống rượu với hắn. Đến lúc hắn tỉnh sau cơn say từ chiều hôm trước, có người đến bảo nhìn thấy vợ hắn tay đeo túi nải, tay dắt đứa con nhỏ đi theo con dốc sang bên bản Pung…
Tối đến, khi lễ thụ đèn sắp bắt đầu thì người ở khắp nơi đổ về, ai cũng muốn xem phần nghi lễ quan trọng nhất. Tiếng kèn Pí Lè, tiếng trống nêm, chũm chọe cùng ánh đèn tạo nên không khí lung linh, huyền ảo. Lúc này chẳng còn ai uống nước nữa nên Sìn được nghỉ ngơi, chẳng buồn chen chân vào xem, hắn tự ngồi ngoài bàn uống rượu, chốc chốc mắt cũng hướng về ánh đèn. Hắn nhìn thấy ông Tài Minh đang ngồi cầm hai tay giữ một cây vầu bọc giấy đỏ trên đó là bảy chiếc đèn đang lung linh tỏa sáng, khuôn mặt ông nghiêm nghị xen cả niềm tự hào. Sìn lại rót rượu uống, hắn uống liền hai chén, rồi ba chén… Hắn nghĩ, từ đời trước nhà đã không ai được cấp sắc, đến đời hắn cũng chẳng có cơ hội đó, có lẽ con hắn cũng vậy, rồi hắn lại rót, lại uống.
– Đẹp quá!
– Chắc ông Tài Minh vui lắm!
– Nhìn kìa! Vợ ông cũng vui chứ, cả mấy anh em nhà ông nữa.
– Im nào! Đang thụ đèn rồi đấy!
Tiếng trống nêm, tiếng kèn rộn rã, lời thỉnh mời Ngọc Hoàng hạ phàm xuống nhân gian chứng kiến lễ cấp sắc. Ông Tài Minh và các anh em của ông sẽ nhận được những sắc phong của thần linh, có âm binh bảo vệ, được mọi người kính trọng, lời nói sẽ có uy tín nhất So Luồng này.
Bên ngoài, Sìn đang uống những giọt rượu cuối, hắn gục đầu xuống bàn, đôi mắt nhòe đi. Hình như hắn thấy mình bồng bềnh lạc vào khung cảnh kỳ lạ, có một bóng người mặc bộ quần áo đỏ như hoa chuối rừng đang leo lên con dốc, Sìn chạy theo nhưng đôi chân hắn mỏi rồi, uống rượu nhiều đôi chân không còn chạy khỏe như hồi thanh niên nữa. Sìn cố chạy về hướng đó, ánh đỏ chìm dần vào làn sương.
– Sìn! Sìn say! Dậy! Dậy đi đun nước cho khách rửa mặt!
Bên ngoài trời đã mờ mờ sáng. Tiếng gà gáy vang khắp các nhà ở So Luồng./.
_____________
(*) Quá tăng: Lễ cấp sắc của người Dao.
Vía của rừng
Trời chưa sáng, Phin bước vào rừng, đây đoạn đường cô và Sinh ngày trước thường hay đi. Sương đọng trên lá, trên váy áo Phin thành những giọt trắng tinh khôi. Mùa xuân đến rồi mà chẳng thấy hoa rừng nở, lá cây chẳng muốn nhú ra nhìn xung quanh. Rừng chẳng còn đủ sức sống ôm trọn người Phiêng Luông nữa, chim, thú trốn đi đâu hết chẳng rõ. Phin đi theo con đường mòn chẳng có đích đến, cô muốn đi tìm Vía về cho rừng. Nhưng Vía ở đâu, Phin không biết nhưng Phin vẫn đi, phải đi thôi, rừng Phiêng Luông nguy lắm rồi.
Cả khu rừng chẳng có nổi tiếng chim kêu, con suối cũng không còn róc rách nữa. Một khoảng xanh mênh mông Phin chẳng tìm nổi gốc cây lớn để nghỉ chân, chẳng tìm được quả rừng để làm dịu cơn khát cháy họng. Cây giống cây, đồi giống đồi, Phin dường như lạc vào miền đất xa lạ khác không phải là rừng của Phiêng Luông. Cây Sấu trên đỉnh Đin Ba đã bị chặt, rừng Dổi dưới chân núi Pù Toòng cũng chỉ còn trơ lại gốc, nước con suối Lủng Căm chẳng ngập nổi chân người. Phin đi men theo con đường mòn chẳng biết đích đến, không còn những cơn gió cuộn nhẹ vào áo Phin như ngày cô cùng Sinh đi tìm măng, mọi thứ đều im lặng.
– Vía ơi! Về đi.
Người Dao đi rừng khi giật mình đều gọi Vía, trẻ con đi nương đều được gọi Vía để không bị lạc. Nhưng Phin tự hỏi, mình có còn là người Dao – những người tự nhận mình là Kềm Miền (người của rừng) nữa hay không? Sinh có phải không? Người ở Phiêng Luông có phải không? Sao lại để Vía đi mất mà chẳng biết gọi về?
Người già bảo ở Phiêng Luông này rừng chẳng thiếu thứ gì cả. Bao nhiêu năm, người trong bản đi chợ phiên chỉ mua muối, thứ duy nhất mà rừng Phiêng Luông không có. Nhưng người trẻ lại cần nhiều hơn, đứa nào lớn lên đều tìm đủ mọi cách ra khỏi Phiêng Luông, đi tìm những thứ không phải của rừng. Có người đã khóc từ đỉnh Pù Sáp về đến bản khi đi được hai năm, có người được ba năm lại về với cái miệng ít nói. Chỉ có thằng Sinh là đi lâu nhất, mãi đến khi con đường to mở đến Phiêng Luông nó mới chịu về. Nhưng chẳng thấy Sinh nói đến chuyện cưới Phin như lời hẹn ở con suối Lủng Căm, chắc hôm ấy tiếng nước cuốn lời nói đi xa rồi.
Sinh về được mấy hôm cũng chẳng đến tìm Phin, chẳng đi thăm hỏi người già, nói với mọi người toàn lời quát nạt ồn ào cả bản, rồi lại tụ tập mấy thằng thanh niên trong bản uống rượu cả ngày. Được mấy hôm, Phiêng Luông thấy có đám người lạ từ đâu về tìm gặp Sinh. Khuôn mặt họ gằm gằm, hình xăm trổ khắp người khiến ai cũng nép vào mép đường khi gặp. Người già lắc đầu, lặng lẽ nhìn xem thằng Sinh và đám người lạ.
Người lạ vừa đến được hai hôm đã hợp cùng một số thanh niên làng chặt hạ gốc Sấu đầu bản. Tiếng máy cưa, tiếng cây đổ khiến người già giật bắn người, lũ trẻ nép vào chân mẹ, đôi mắt những người đàn bà ngơ ngác. Bố Phin chạy nhanh gạt tay Sinh lại. Hắn hất hàm:
– Cây của nhà ông à?
– Cây thiêng đấy, chặt nó sẽ bị báo ứng!
– Nếu thế bọn tao bị thôi, đừng lo.
Tiếng cười ha hả, tiếng máy cưa vẫn tiếp tục cứa vào thân cây, nhựa bắn tóe vào áo bố Phin.
– Cả Phiêng Luông này sẽ bị, không riêng lũ chúng mày.
Lời ông chẳng át nổi tiếng ầm ầm của những lưỡi cưa đang xẻ từng miếng gỗ. Gạt những giọt nước mắt khỏi khuôn mặt nhăn nheo, ông về nhà thắp nén hương lên ban thờ lẩm nhẩm lời khấn vái. Khấn xong ông chỉ tay thẳng vào mặt Phin.
– Mày còn nghĩ tới thằng Sinh tao chém mày chết!
Xong cây Sấu, những cây to khác ở Phiêng Luông tiếp tục bị chặt hạ. Những nhà có người đi chặt gỗ cũng chợt nhận ra nhà thiếu nhiều thứ quá. Tiền có trong túi rồi ra chợ gặp thứ gì cũng muốn mua, gặp thứ gì cũng thấy cần mang về. Những nhà không có chân trong đám xẻ gỗ thì tiếc lắm, trong bụng tự an ủi rằng khi bị thần trừng phạt sẽ không liên quan đến nhà mình. Nhiều cô gái hay đi lại qua nhà thằng Sinh lắm, có cô đi chậm như đếm được từng hòn đá trên đường. Trong những cô ấy có Phin, Sinh nhiều lần nhìn thấy nhưng đều quay đi, đôi mắt cứ nhìn đi nơi khác.
Cũng như lúc đến, đám người lạ chẳng kịp để lại tên ở Phiêng Luông, vội vàng đi từ khi trời còn tờ mờ sáng. Sinh cũng biến mất khỏi bản chẳng thèm để ý đến đám thanh niên bản thường ngày vẫn đi cùng khắp rừng Phiêng Luông.
Rừng Phiêng Luông tan tác, những cây cổ thụ đều bị chặt. Cây lớn đổ, cây nhỏ xung quanh cũng bị đè nát, những cánh rừng giờ chẳng thể che được cơn gió lạnh từ Lủng Chang thổi về nữa. Người Phiêng Luông lo lắng, người già đến cửa rừng thắp hương đều bị gió thổi tắt, trẻ con ốm nhiều đến nỗi ban đêm Phiêng Luông còn ồn ào hơn cả ban ngày.
… Phin nhớ có lần Sinh kể rằng ở Phiêng Luông có một nơi đẹp lắm. Sinh bảo, đấy là nơi đầu nguồn, nơi bắt đầu của rừng, của con suối, muông thú ở Phiêng Luông. Lần ấy, Phin và Sinh chỉ đứng ở xa nhìn, nơi ấy đẹp lắm, Phin định bước tiếp nhưng Sinh ngăn lại, “đừng làm Vía rừng sợ”. Vía rừng sẽ bảo vệ người Dao, cho thuốc, cho cây, cho thức ăn, cho cái đầu có những cái ý nghĩ thật tốt. Vía rừng sẽ đi khắp Phiêng Luông để nhìn những người con ngày đêm tin vào rừng, yêu rừng như những người cùng dòng họ. Đó là lần duy nhất hai người đến đó, giờ đây, rừng Phiêng Luông chắc đã bị động, Phin muốn đến đó nhưng không có Sinh, cô chẳng nhớ nổi đường đi. Cô muốn đến đó để tìm Vía về cho rừng, cho Phiêng Luông.
Tháng mười hai, những cơn mưa phùn đã bắt đầu rải nước khắp các khu rừng ở Phiêng Luông, người trong bản mang thuổng đến cho Tài Minh rèn lại thật sắc để chuẩn bị lên rừng đào măng vầu. Những chiếc túi nải đã được khâu lớn hơn năm ngoái. Phiên chợ trước lái buôn đã đặt hàng sẵn rồi, măng đầu mùa được giá lắm. Người Phiêng Luông trông vào vụ măng này để có tiền mua sắm tết. Ai cũng đợi những cơn mưa phùn đầu tiên hệt như bọn trẻ đợi người lớn từ nương về. Rồi đây khắp rừng Phiêng Luông sẽ vang tiếng hú gọi nhau, tiếng cười nói hệt như ngày hội. Người già sẽ ở nhà đợi những túi nải đầy măng, trong bụng sẽ vui hệt như chính họ tìm được măng vậy. Họ sẽ vuốt râu, nhấp chén chè đặc mà tự hào rừng Phiêng Luông có đủ mọi thứ mà người Phiêng Luông cần.
Con đường vào khu Lủng Căm từ sáng sớm đã đông người đi, ai cũng đeo túi nải, vai vác những cái thuổng đã được tra cán mới. Đám trẻ con cũng được đeo túi nải nhỏ, chiếc thuổng cũng bé xíu vừa tay, khuôn mặt ai cũng vui, miệng thở ra những làn khói hệt như những người hút thuốc lào.
– Đã tìm được củ măng nào chưa?
– Bên đấy có không?
– Sao không thấy củ măng nào nhỉ?
– Hay năm nay măng lên muộn?
– Lên muộn thì cũng phải có vài củ nứt đất chứ. Mọi năm đã nhú lên rồi mà.
– Mưa phùn ba ngày rồi đấy!
– Lạ quá!
Khắp rừng ồn ào nhiều lời thắc mắc, một buổi sáng đã hết nhưng đất cả khu Lủng Căm vẫn chưa bị đào lên, thảm lá vầu rụng xuống vẫn nguyên vẹn như chưa có bước chân người qua. Đã lên đến đỉnh Lủng Căm, túi nải của ai cũng xẹp lép, thuổng vẫn chưa dính đất. Mọi người nhìn nhau, có tiếng hú ở phía xa xa, ở đó thảm rừng trông hệt như tấm áo rách của bà Nải.
Người già đang nhấp ngụm chè bỗng dừng lại, sao giờ đã có tiếng người về? Tìm được măng nhanh vậy ư. Người già đi về phía chân dốc, những ánh mắt tròn gặp nhau rồi lẳng lặng đi về phía bản. Chiều hôm ấy, đám lái buôn lại có dịp chê người Phiêng Luông lười quá, chỉ biết ngồi nhà uống rượu, tiền ở rừng mà chẳng chịu đi lấy về.
Tháng năm, những tia nắng vàng nhất đã lan khắp các khu rừng Phiêng Luông, giờ chỉ cần một mồi lửa là bãi nương sẽ cháy sạch, lúa năm nay sẽ xanh mượt lắm, những bông nặng trĩu sẽ thử thách người Phiêng Luông thi xem ai là người khỏe nhất. Năm trước, thằng Sinh đã gánh được tám cum lúa, đến giờ vẫn chưa ai làm được. Năm nay đã có nhiều nhà cho con gái sang nhà Sinh gọi chính tên anh để đổi công gánh lúa nhưng nó không nhận lời đám nào, mắt chỉ nhìn sang nhà Phin… Trời nắng đẹp lắm, nương khô tốt lắm rồi, phải làm nhanh để kịp gieo hạt để đón những trận mưa kéo đến tưới mát từng hạt thóc. Chỉ một tháng thôi, những bãi nương sẽ được phủ một thảm xanh mát. Người Phiêng Luông mong vụ lúa này lắm, nhiều nhà đã độn sắn ăn vì sợ thóc không kịp đón những bông lúa từ nương về.
Nhưng rồi khi những bông hoa trắng đã xuất hiện cũng là lúc ánh nắng dường như cũng muốn ngắm hoa lúa dài hơn. Người già ở Phiêng Luông chưa bao giờ thấy nắng nhiều như vậy, dường như khi mặt trời lên khỏi đỉnh Khâu Săm cũng là lúc mọi thứ đều biến thành màu vàng. Người lớn lên nương từ lúc gà mới gáy lần hai, đến khi nắng xuất hiện cũng vội vàng trốn vào tán cây. Gió ở Phiêng Luông không đủ mát nữa, trẻ nhỏ trốn trong nhà. Người Phiêng Luông đang sợ sắc vàng của nắng thì lại hoảng loạn trước sắc vàng khác. Những bãi nứa khắp Phiêng Luông bỗng dưng lụi hết, thân, lá, rễ đều vàng khô lại. Người già chưa hết tròn mắt vì sự lạ đã phải vò đầu vì đám chuột. Không biết tại sao nhiều chuột thế, khắp các bồ thóc đâu đâu cũng bị chuột động đến. Lũ mèo kêu lạc giọng, chó sủa vang bản chuột vẫn kêu rúc rích. Trên nương, chuột chạy rung khắp các khóm lúa hệt như có cơn gió thổi qua. Đêm đến, đám thanh niên mỗi người một gậy, dẫn theo lũ chó lên nương đập chuột đến gần sáng. Khắp các ngọn đồi, tiếng người gọi nhau, tiếng chó sủa. Người già chẳng còn lời để nói, người lớn uống rượu nhiều hơn, đàn bà chỉ biết ôm con khóc. Bọn trẻ thấy vậy cũng chẳng dám cười đùa, khuôn mặt cũng nhăn nhăn hệt người lớn.
Người Phiêng Luông truyền tai nhau chuyện rừng động đã bao đời chưa từng xuất hiện. Tất cả là tại thằng Sinh và những người lạ chặt cây thiêng, đám thanh niên trong làng trước kia theo Sinh chặt cây, giờ im lặng không dám nói gì. Ai cũng sợ thần rừng sẽ tìm đến để đòi nợ. Buổi tối đến, đám thanh niên cố uống những chén rượu to để mong chìm vào giấc ngủ thật say. Nhiều thằng bảo, thằng Sinh tội nặng nhất, ấy thế mà nó đi xa lại không bị thần rừng trách, bọn mình cũng phải trốn đi xa để tránh nạn đã. Lời ấy được nhiều người đồng ý, nhiều người đã tính đến ngày đi. Khi đám thanh niên đã chuẩn bị hết đồ để đi khỏi Phiêng Luông thì Sinh về. Khuôn mặt hắn trắng bệch, gặp ai cũng rụt rè, đám thanh niên tìm đến nhà chỉ thấy cửa đóng im ỉm. Được ba hôm, Sinh tìm đến từng nhà của người già nói chuyện gì đó nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Đêm ấy Sinh quỳ trước cổng nhà Phin suốt đêm dài, bố cầm dao đứng chắn. Phin nằm trong buồng chỉ biết khóc.
Những cơn gió nóng kéo từ Khâu Săm về Phiêng Luông, Sinh lẳng lặng đeo túi nải nhỏ đi vào rừng. Đến nơi hắn dừng lại. Khuôn mặt hắn mếu máo, đôi mắt khô khốc nhìn xung quanh. Chỉ một bước chân nữa thôi là hắn sẽ bước vào cánh rừng đầu nguồn, rừng thiêng mà chưa ai dám bước. Nhưng hắn lùi lại. Giờ là hai bước chân, rồi ba bước. Hình như có thứ gì đó đang đẩy hắn ra. Hắn vò đầu rồi lẳng lặng quỳ xuống. Đó là lần cuối người Phiêng Luông thấy hắn.
Rừng Phiêng Luông bao lâu nay đã nuôi người Phiêng Luông quá nhiều rồi, rừng không còn sức nữa. Giờ người Phiêng Luông phải nuôi rừng, phải để con cháu có rừng. Lời người già nói ra khi lúa trên nương đã bị mất trắng, năm nay sẽ có nhiều nhà lên rừng đào củ mài từ sớm. Sẽ chẳng có ai hỏi rừng Phiêng Luông có thứ gì nữa, người Phiêng Luông ra chợ phiên cũng chẳng dám nói to. Rồi có một cơn gió ào tới, cơn gió mát, cơn gió mùa xuân. Ai cũng nhớn nhác nhìn về phía rừng, nơi đó có một nửa Vía đang cố vá lại những khoảng rừng đang mất.
TRIỆU HOÀNG GIANG