Truyện ngắn tác giả trẻ Phan Đức Lộc ở Điện Biên

Vanvn- Phan Đức Lộc sinh ngày 24.12.1995 quê quán Đức Thành, Yên Thành, Nghệ An; tốt nghiệp Học viện Cảnh sát nhân dân, hiện công tác ở huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Anh đã xuất bản 1 tiểu thuyết, 1 truyện dài, 3 tập truyện ngắn và 2 tập tản văn; được trao Giải nhất Cuộc thi Sáng tác văn học trẻ 2018, Giải nhì Cuộc thi truyện ngắn 2018 – 2020 của Tạp chí Nhà Văn & Tác Phẩm, Giải ba Cuộc thi “Một nửa làm đầy thế giới” năm 2019 và một số giải thưởng thơ, kịch bản văn học, tản văn và báo chí.

Tôi biết Phan Đức Lộc từ ngày còn là học viên năm thứ 2 của Học viện Cảnh sát nhân dân. Thời gian là học viên Lộc viết được rất ít, có cái gì thường gửi cho tôi đọc trước. Nhưng về sau tốt nghiệp được điều lên Tây Bắc, Lộc như con thú được thả vào cánh rừng nguyên sinh nên cậu ấy viết cứ như không khiến tôi không còn đọc kịp được nữa. Đúng là môi trường là điều kiện tốt nhất để sản sinh ra một cây bút. Xin trân trọng cùng bạn đọc.

 TRẦN ĐỨC TĨNH giới thiệu

Tác giả trẻ Phan Đức Lộc

MÙA ĐÔNG Ở SÍNH PHÌNH

 

Mùa đông năm nay rét hơn năm ngoái. Sính Phình suốt ngày âm âm, u u màu nước vo gạo khiến người ta không còn phân biệt được đâu là bảng lảng của khói, đâu là bàng bạc của sương. Những nhành cây, chiếc lá được bao bọc bởi lớp băng mỏng như thủy tinh trong suốt. Bầy chó, đàn lợn cuộn mình nằm thu lu trong những ổ rơm thơm vàng xuộm. Rét quá! Rét đến mức cỏ hoa ngừng nở, con chim ngừng bay. Chỉ tiếng gió loạt soạt trên những mái gianh ẩm mục thê thiết rít mãi không ngừng, rít từ ngày chẵn sang ngày lẻ, rít từ khi con gà rừng le te gọi sáng cho tới lúc chim cú lợn rền rĩ ăn đêm. Bản là cái túi đựng gió, đựng sương, đựng mưa phùn và giá lạnh. Mùa này, trồng cây không bám rễ, gieo hạt không nứt chồi. Đất nương đành để cho cây cỏ lún phún mọc dày. Cỏ nhoài ra đến đâu, cái nghèo, cái đói lan ra đến đó. Thầm mong ăn ít vẫn no, mặc mỏng vẫn ấm. Rồi qua giêng hai sẽ gắng lách đường cày, lưỡi cuốc khai khẩn đất hoang, thả thêm hạt ngô, nhúi thêm hạt thóc. Còn bây giờ, chân không muốn bước qua bậu cửa. Chẳng kể đêm hay ngày, những bếp lửa của các nhà trong bản luôn bập bùng cháy hồng rạo rực. Trẻ con nướng củ khoai, đụn sắn. Phụ nữ dệt váy, thêu khăn. Đàn ông quây quần nâng sừng rượu nồng và hút thuốc lào sòng sọc. Thú vui ngày đông chỉ có vậy.

Cơn lũ mùa thu nhanh như con rắn gió đã cuốn phăng ngôi nhà gỗ của vợ chồng Sùng xuống con suối Tả Sìn Thàng. Vợ chồng hì hụi hai tuần ròng mới gom đủ cỏ gianh dựng lại được một căn nhà trệt lè tè để gia đình Sùng có nơi ngửa lưng ngủ tạm và một cái chuồng cao hơn chút để con trâu có chỗ chui vào, chui ra. May mà buổi chiều trước hôm lũ sắp về, Sùng đi đốn củi, thấy con sáo đen tắm suối, biết thể nào cũng sắp mưa lớn nên đã kịp mang trâu lên gửi gốc ban nhà hàng xóm bên trên. Mất con trâu vợ chồng Sùng chỉ còn nước nai lưng vác lù cở đi làm thuê, làm mướn suốt đời. Sính Phình ơi, Sính Phình à, con người thương đất nhưng đất đâu thương người? Cái vùng đất mùa hè nắng nẻ cành lim, mùa đông rét co hòn đá. Mùa nối mùa trôi nhanh hơn cả đôi chân người con trai rượt đuổi nai rừng. Cái mặc, miếng ăn lũ nuốt hết rồi. Và mùa đông năm nay, vợ chồng Sùng không có nổi một chùm ngô lép treo lên gác bếp chứ nói gì đến việc mua thêm gối ấm, chăn êm. Trong bản, nhà ai cũng nghèo. Họ cho mình vay bữa một, bữa hai chứ không ai đủ lương thực cho mình vay lần ba, lần bốn. Mấy ngày nay, cả gia đình Sùng ăn rau cải luộc đến xanh đường ruột. Đứa con ôm bụng, nhéo nhẳng khóc:

– Cơm! Con thèm cơm!

Âu yếm ôm đứa con vào lòng thật chặt, cái Lìa, vợ Sùng nựng nịu dỗ dành:

– A Hồng đừng khóc! Con trâu làm việc vất vả còn phải ăn rơm kia kìa.

Đang hì hục bổ cúi bên gốc ban, Sùng quát vọng vào, giọng ồm ồm như tiếng nước vỡ ra từ miệng thác:

– Lại khóc gì đấy, A Hồng!

A Hồng giật mình co rúm vào lòng mẹ. Lìa vuốt tóc con, đôi mắt nhìn chồng rồi nhìn xuống những ngón chân cáu đất của mình, chùng giọng:

– Hay là bán con trâu, mình ơi!

Đây là lần thứ hai Lìa nói câu này. Sùng bập lưỡi rìu vào gốc ban, ngồi thừ giữa đống củi đang bổ dở, hai tay bứt rứt vò đầu. Bán trâu đi rồi, đến mùa gieo hạt, lấy gì cày đất? Sùng nhớ ngày xưa, nhà nghèo, không tậu nổi con trâu nên đến mùa trồng ngô, cha đành phải làm con trâu hùng hục kéo cày, mẹ đẩy theo sau nước mắt rơi lã chã. Người gắng đến mấy cũng chẳng khỏe bằng trâu. Đá thì cứng. Chân thì mềm. Khom lưng, hóp bụng cả ngày chưa cày xong một vạt nương nhỏ trong khi nương các nhà bên cạnh, mầm ngô đã nhú lên mơn mởn. Thành ra, cái đói cứ dai dẳng bám vào nhà Sùng như con vắt gặp bắp chân nà nõn. Sau mấy mùa ngô, cha Sùng bị đau thắt vùng ngực đến nỗi thở khẽ cũng nhoi nhói như có hàng chục mũi kim xuyên thẳng vào tim. Rồi không chịu được cơn đau giày vò ngày càng dữ dội và cảnh vợ con nheo nhóc nhịn đói nhường cho mình từng hạt mèn mén, củ khoai, ông đã lót dạ bằng một nắm lá ngón. Đó là một buổi chiều mùa đông tuyết rắc mịt mùng, khi mẹ Sùng bê bát cháo lên thì đã thấy miệng cha Sùng sùi đầy bọt mép. Năm ấy, Sùng bảy tuổi. Sau lưng là bầy em lít nhít…

Cha mất, mẹ thế chỗ làm con trâu kéo cày, Sùng theo sau mồ hôi giàn giụa. Chân mẹ bước đến đâu, đất nở bung đến đấy. Bắp ngô nặng hạt, lưng mẹ còng dần. Người mệt, đất cũng hao mòn. Qua mỗi năm, bắp ngô trên nương lại càng thêm còi cọc. Lưỡi cày giục đôi chân tìm vùng đất mới. Cứ thế, quãng đường cõng bắp ngô về bản cứ xa ra, xa mãi, cheo leo, ngút ngát mây ngàn. Khi Sùng trở thành chàng thanh niên cường tráng thì mẹ Sùng đổ xuống giường bệnh như cây ngô bị sâu đục thân vấp phải cơn gió mạnh. Cả đời mẹ Sùng mài bàn chân trên mũi đá, nên đến lúc về già, nằm một chỗ, bà quay quắt nhớ những ngày trèo đèo nhặt củi, leo núi tra ngô. Nỗi nhớ không chịu ở yên trong lồng ngực nên đành bật ra thành tiếng hát lắt lay. Và cứ thế, qua ô cửa sổ, tiếng hát bay lên đỉnh núi Sáng Nhè. Tiếng hát bay về cổng trời mây phủ. Núi mệt rồi, núi nghiêng đầu ngủ. Mây mỏi rồi, mây chẳng buồn trôi. Tiếng hát khiến mẹ Sùng quên đi nỗi đau. Nhưng khi cái miệng vừa nghỉ thì cái lưng lên tiếng, cái lưng khó tính khó nết trái gió trở trời không vừa ý lại sưng lên đỏ tấy, đem mũi kim chích nhẹ, mủ bật ra trắng đục. Mẹ Sùng mất. Cỗ quan tài đóng bằng gỗ táu chẳng đủ rộng bởi lưng mẹ oằn oèo, xiêu vẹo và cứng như đá nên đặt mẹ nằm ngửa không được, nằm nghiêng cũng không xong. Sùng đau đớn gục đầu trên ngực mẹ…

Sùng nghĩ, giá nhà mình có một con trâu giúp việc thì cha mẹ đã không phải chết khổ, chết sở thế này. Sùng giờ là trụ cột trong gia đình. Mặc kệ nắng mưa, sương gió, ngày nào, Sùng cũng giẫm cỏ, đạp gai hăm hở vác nỏ băng vào rừng săn thú bán cho mấy quán ăn đặc sản dưới thị trấn lấy tiền mua gạo nuôi đàn em và dành ra một khoản nhét vào cái ống tre bịt kín hai đầu để mai này mua một con trâu trước lúc cưới vợ. Ấy thế mà Sùng chưa đủ tiền mua trâu, cái bụng Lìa đã lùm lùm đội lên sau lớp áo. Sùng cưới Lìa. Ước mơ sở hữu một con trâu vẫn luôn đau đáu trong đầu Sùng. Một ngày nọ, khi ống tre đã đặc lại và không thể đút thêm tiền được nữa, Sùng đập vỡ nó ra, hai vợ chồng ngồi đếm những tờ tiền quăn queo, nhàu nhĩ. Bảy triệu tám trăm mười sáu nghìn. Cầm món tiền như nâng quả trứng chim nhỏ bé trên tay, lòng Sùng lâng lâng sung sướng. Lìa bán nốt cái kiềng bạc đang đeo ở cổ và chiếc váy thổ cẩm hồi môn chưa mặc một lần, cất trong rương gỗ, vẫn không đủ tiền mua trâu. Sùng lại băn khoăn nghĩ, mình còn khỏe, kéo cày cả ngày không thấm mệt. Nhưng cứ bắt Lìa vừa địu con, vừa đẩy cày như những vụ trồng ngô vừa qua, cái lưng vợ sớm muộn cũng cong oằn như lưng mẹ mất thôi. A Hồng lại đang lớn từng ngày. Rồi mai này còn mang cặp theo chúng bạn đến trường học chữ nữa. Bao nhiêu thứ phải lo. Sùng nói với vợ, giọng dứt khoát:

– Tôi sẽ mua trâu. Còn nợ một ít, hẹn với người ta trả vào mùa thu hoạch ngô năm sau…

– Ừ, mong trời thương cho mùa màng tươi tốt.

Cuối cùng, điều ước của Sùng cũng thành hiện thực. Một con trâu khỏe bằng mấy chục con người. Có trâu, vợ chồng khai khẩn được nhiều vùng đất hoang màu mỡ. Từ dấu chân trâu, cây sắn nảy chồi, hạt ngô mở mắt, lúa đồi bật xanh. Mượn câu hát thương nhau mà vượt qua mười núi, chín đèo. Người ở đâu, trâu ở đấy. Chẳng lo đá cứng, không sợ đất cằn, người còn sức thì trâu còn sức, mùa gọi mùa mang đến ấm no. Nơi góc nhà, sắn gối đầu lên sắn. Trên vách bếp, ngôi chen chúc vai ngô. Tha hồ nấu rượu, đồ xôi, làm mèn mén, tha hồ sẻ cho đàn gà, chia cho bầy lợn nhặt nhạnh nhằm nhặp suốt ngày. Sùng chăm con trâu còn hơn chăm A Hồng. Mỗi lần Sùng tắm cho A Hồng, thằng bé đều khóc ré lên. Vậy mà, Sùng tắm cho con trâu, con trâu sáng bóng nước da đen mượt. Rồi tay Sùng cứ vuốt ve mãi bộ sừng cong vút của nó cho đến khi Lìa giục Sùng đi làm việc khác mới thôi. Tiền bán ngô, bán sắn, Sùng xuống thị trấn sắm thêm nồi, xoong, chăn, màn. Cái đói bị lùa ra khỏi nhà để đón niềm vui ùa vào rôm rả. Những tưởng gia đình Sùng cứ sống đầm ấm như thế mãi thì bỗng chốc, cơn lũ đã cướp đi gần như tất cả. Vợ chảy nước mắt ra ngoài. Chồng nuốt nước mắt vào trong. Đứa con thì cứ lon ton, đói đòi ăn, lạnh đòi mặc. Mùa đông còn rất dài, dài hơn cả con suối Tả Sìn Thàng, vợ chồng Sùng biết phải làm sao đây?

Mắt Lìa vẫn chăm chăm nhìn Sùng chờ đợi một câu trả lời. Sùng cứ ngồi nghệt ra, mặt ngẩn ngơ vô hồn như tảng đá. Mãi một lúc lâu sau, Sùng mới dứt ra khỏi dòng hoài niệm miên man để trở về với thực tại chán chường:

– Tôi là thằng vô dụng!

***

Đứa con bị cúm nhẹ. Trong giấc mơ đêm đêm, nó luôn miệng đòi cơm. Sùng nằm ngoài, vợ nằm trong nghiêng người ủ ấm cho đứa con nằm ở chính giữa trên chiếc giường ghép từ những cây nứa ọp à ọp ẹp, lách tách tiếng mọt ăn đêm. Càng về khuya, trời càng rét đậm. Không gian ngoài kia quánh đặc, tù mù nhưng tiếng gió vẫn sắc lẹm như tiếng roi quất mạnh vào mông con ngựa vía, từng nhát một. Căn nhà quá nhỏ và chật để có thể nhen lên một bếp than hồng. Thành thử rét quờ quạng lùng sục từ bên ngoài, rét thông thống luồn lách vào bên trong. Sùng vờ ngáy khẽ mà đầu vương vương bao ý nghĩ ngổn ngang. Lìa khép mắt mà tiếng sụt sịt còn nén trong khoang mũi. Con chim cú lợn đầu trên cành ban cạnh chuồng trâu, tỉ tê kêu như muốn hát:

“Mùa đông rét, rét lắm người ơi

Tìm mái tóc, mái tóc rối bời

Tìm bông hoa, bông hoa vừa rụng

Tìm hòn than, than đã tàn rồi…”.

Nửa đêm, đợi khi vợ và con đã thiu thiu ngủ, Sùng rón rén trở dậy. Chiếc giường nứa khẽ rên lên ót ót, ét ét. Sùng kéo chiếc gối của mình chèn bên sườn A Hồng rồi bước ra ngoài bóng tối âm u. Quờ tay không thấy chồng đâu, Lìa choàng dậy, kéo chăn ém chặt cho con rồi cũng vội vàng chạy ra bóng tối bít bùng vây bủa ngoài kia. Trời tối đen như bồ hóng bám lâu ngày trên vách bếp, Lìa không nhìn thấy rõ con đường trước mặt. Chẳng biết Sùng đi đâu, nhưng có một thứ lực kéo khó cắt nghĩa thôi thúc đôi chân Lìa quýnh quáng bám theo tiếng bước chân chồng càng lúc càng mờ dần. Tiếng bước chân lẫn vào gió Bấc, như có, như không, mơ hồ, hoang lạnh. Lìa sấp ngửa đi như chạy, bàn chân giẫm lên cỏ sắc và vấp vào đá nhọn suýt ngã mấy lần, đau buôn buốt. Nhưng Lìa không dám gọi tên chồng vì sợ chó nhà hàng xóm bừng tỉnh, sủa nhặng làm mất giấc ngủ của người ta. Sùng đang đi về phía nhà Dơ. Đến chỗ gốc đào, Sùng đứng quan sát một lúc rồi ngón chân cái lần theo những cái kẽ hở trên hàng rào đá, nhấp nhổm định trèo sang. Lìa đã kịp kéo gấu ào Sùng lại:

– Chồng định làm gì đấy?

Sùng quay đầu về phía vợ, thụt xuống, ấp úng:

– Tôi… tôi… định vào nhà thằng Dơ lấy trộm ít gạo và con gà về nấu cháo cho con! Sau này, mình có, mình sẽ mang trả họ.

– Chồng ơi – Lìa nói như van nài – Không thể làm thế được đâu. Lỡ bị bắt, vợ chồng mình sẽ bị cả bản cười chê đấy. Tôi có cách khác. Sáng mai thể nào tôi cũng mua được gạo và gà về nấu cháo cho con.

– Tiền không có, lấy gì mua bây giờ – Sùng nghẹn ắng ở cổ họng.

– Chồng cứ theo tôi về cái đã.

***

Buổi chợ phiên, thời tiết hãy còn giá lạnh và nhiều sương muối nhưng từ tờ mờ sáng, người các bản gần xa đã là lượt váy áo tưng bừng rủ nhau đi chợ. Búp chồi đang ngủ quên. Nụ hoa chưa tỉnh giấc. Băng giá vẫn chưa tan. Nhưng cái hắt hiu, ảm đạm của mùa đông như được khuấy động bởi tiếng khèn thổn thức của con trai và như được sưởi ấm bởi những váy xòe sặc sỡ hoa văn, những vành ô đủ sắc màu rạng rỡ của con gái. Người cắp nách con lợn. Người xách đôi con gà. Người cõng mớ rau rừng. Chân rảo bước. Mặt ai cũng hân hoan. Mắt ai cũng hớn hở. Hoà vào dòng người nô nức ấy xuống chợ, lòng Lìa quạnh quẽ, muộn phiền. Lìa không có khuyên tai, kiềng bạc, cũng chẳng có váy mới làm duyên. Chiếc váy Lìa mặc đã bám mờ màu nâu của đất. Lìa chẳng còn tâm trí nào để quan sát những người xung quanh. Chợ phiên đã hiện ra, đông vui, nhộn nhịp như cánh đồng hoa rộn ràng ong bướm. Len vào dòng người nườm nượp ngược xuôi, Lìa cúi đầu đi như kẻ mang tội. Run rủi thế nào, Lìa lại vấp phải bờ vai một người đàn ông làm chiếc khèn bị rơi xuống đất. Lìa cuống quýt nói lời xin lỗi, cúi xuống nhặt chiếc khèn, phủi sạch bụi. Rồi Lìa rụt rè ngẩng gương mặt nhìn lên. A Chá! Mặt Lìa lại đỏ và nóng bừng như than bén lửa. Đỡ lấy bờ vai của Lìa, A Chá chòng ghẹo:

– Lìa, chồng đâu mà xuống chợ một mình thế này? Không có váy đẹp à?

Lúng túng gạt bàn tay của A Chá ra khỏi bờ vai mình, Lìa nhìn xuống chiếc váy cũ sờn đang mặc. Cái bộ dạng nhếch nhác lúc này làm Lìa cảm thấy xấu hổ, gương mặt vẫn chưa thôi ứng đỏ lại ngượng ngùng cúi gằm xuống:

– Tôi không cố ý! Xin bỏ qua cho tôi.

– Khoan đã – A Chá nói như ra lệnh rồi nâng cằm Lìa lên – Mày không có váy đẹp nhưng mặt mày đẹp. Ngày xưa làm vợ tao thì có phải bây giờ có váy đẹp mặc đi chợ rồi không?

– Muộn rồi – Tim Lìa thình thình đập – Xin cho tôi đi!

– Cái khèn này làm từ gỗ quý, đắt bằng cả con trâu mộng đấy – A Chá câng câng – Mày làm rơi rồi muốn đi là đi sao?

– Tôi… – Bằng một con trâu mộng? Lúc này thì chân tay Lìa run lật bật, môi mấp máy không biết nói gì thêm để A Chá tha tội.

A Chá ghé môi vào vành tai Lìa gần như hôn, nói thì thầm:

– Hay mày về làm vợ bé của tao đi. Tao vẫn còn thương mày. Theo tao mày sẽ được ăn cơm ngon, mặc váy đẹp.

Câu nói của A Chá làm Lìa chết lặng một vài giây. Rồi tiếp đến, từng đốm da gà nổi lên trên cánh tay Lìa rần rật. Ngày ấy, cả A Chá và Sùng đều yêu Lìa. A Chá nhà giàu nhưng tính tình ngạo mạn. Sùng nhà nghèo nhưng tính tình chất phác. Đàn bà Mông vớ phải chồng nghèo thì cực khổ chẳng khác gì thân trâu, kiếp ngựa. Bởi vậy, cha mẹ hết lòng khuyên nhủ Lìa lấy A Chá để nhàn rỗi cái thân. Nhưng nghe theo trái tim, Lìa lại chọn Sùng để gửi gắm cả cuộc đời mình. Vợ chồng đã từng nguyện thề với nhau, vui thì cùng vui, khổ thì cùng khổ. Lìa yêu chồng. Lìa thương con. Lìa không thể làm một người vợ phản bội. Thà mặc chiếc váy xấu mà có cái bụng tốt còn hơn mặc váy đẹp mà cái bụng xấu. Chợ phiên vẫn rộn rã tiếng người lại qua. Ai cũng vui, chỉ Lìa là đang bồn chồn, ủ rũ. Lỡ người trong bản bắt gặp, mách với Sùng rằng Lìa đứng cạnh người đàn ông lạ ở chợ thì biết ăn nói ra sao với chồng? Dồn sức đẩy mạnh A Chá ra, Lìa nhanh trí bịa một lý do:

– Tôi bị bệnh lao đấy. A Chá muốn bị lây thì cứ đứng cạnh tôi!

Đến nước này, A Chá mới chịu buông bỏ cho Lìa đi.

***

Lìa về đến bản thì màn sương mờ đục đang dần tan loãng ra. Váy Lìa ướt nhèm nhưng niềm vui khi vác túi gạo sau lù cở và xách trên tòn ten trên tay con gà tre nhỏ nhắn làm Lìa quên cả cái rét. Bước chân Lìa như đang nhảy xập xình trên những bậc đá lớm chớm cỏ dẫn vào nhà.

– Con đỡ chưa, chồng?

– Đỡ hơn chút rồi, đang ngủ – Đang thái thân chuối cho trâu, Sùng đáp. Rồi ngạc nhiên hỏi vợ – Mình lấy đâu ra tiền mua những thứ này vậy?

– Tiền người ta cho vay?

Ở cái bản này, Sùng đã đi vay không sót một nhà nào. Ai lại tốt bụng cho Lìa vay thêm thế nhỉ? Sùng chưa kịp đoán ra thì Lìa đã vội giục chồng mang con gà tre đi cắt tiết. Còn Lìa lẳng lặng vào nhà, khẽ đặt tay lên trán con kiếm tra nhiệt độ rồi xắn ống tay áo, nhặt những mẩu củi khô, chụm bếp nấu nước sôi ngoài trời. Củi còn ướt sương nên khói um lên lún ngún. Lìa ngồi yên như thế để khói xông vào mũi, vào mắt cay xè. Lìa thích ngắm, thích ngửi mùi của khói. Khói vẽ nên dáng hình của sự vấn vương, no đủ. Khói làm lòng Lìa thấy ấm áp, bình yên. Củi bén lửa và cháy đượm dần. Một ngọn lửa hồng bùng lên êm dịu. Chỉ đến khi kề lửa, Lìa mới nhận ra chân tay mình đã tê cóng tự bao giờ. Lìa chà chà bàn tay hơ trên ngọn lửa, ấp vào gò má mịn màng của mình rồi ngồi bó gối nhìn Sùng đang hóa kiếp cho con gà và chia nó ra hai nửa, một nửa ướp muối để dành, một nửa nấu cháo bữa trưa. Những hình ảnh hạnh phúc và vui tươi của ngày hôm qua hiện về trong tâm trí Lìa, da diết. Đến trời còn có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì đời người cũng phải có lúc no, khi đói. Mùa đông dài thật dài. Nhưng mùa đông cũng sẽ phải ra đi như chiếc lá ban héo vàng rụng rơi về cội. Lìa còn chờ đợi mùa xuân…

Tô cháo gà loang loáng váng mỡ vàng trên tay đang bốc hơi nghi ngút. Lìa bón từng thìa cho A Hồng. Nó ăn một cách ngon lành. Ăn xong lại chui vào chăn ngủ thiếp. Còn cái dấu cháo dính trong tô, Lìa đổ nước sôi vào tráng sạch, đưa lên môi húp khe khẽ. Mấy ngày liền ăn rau cải luộc chấm nước muối, cái bụng Lìa cũng quặn riết như bị buộc chỉ. Thấy thế, Sùng bảo vợ:

– Còn một ít cháo đây, vợ ăn đi!

– Tôi ăn no rồi, chồng ăn đi!

– Hai vợ chồng mình chia nhau mỗi người một muôi!

Lìa đến ngồi bên Sùng, e ấp như thuở còn son rỗi. Cái đói đã khắc lên bên khóe mắt Sùng những rãnh nếp nhăn hoắm sâu như vết dao rạch. Sùng nhìn Lìa, thấy thương cho người vợ đẹp phải theo anh gùi chung cái khổ. Lìa ngượng nghịu cúi mặt rồi bất chợt cái khăn quấn đầu bị bung xõa. Nhận ra sự khác lạ của Lìa, Sùng thảng thốt như bị rìu bổ phải ngón chân:

– Vợ ơi! Vợ cắt tóc rồi ư?

Ôm choàng lấy cổ chồng, Lìa nghẹn ngào:

– Tôi bán tóc chợ phiên được hai trăm nghìn!

Mái tóc Lìa, mái tóc suôn dài, óng mượt và thơm tho hương hoa cỏ miền sơn cước thanh tân. Mái tóc khiến suối cũng phải hờn, núi cũng phải ghen. Mái tóc làm con trai ngơ ngẩn si mê, con gái trầm trồ ao ước. Ngày ấy, khi ra suối cõng nước, đôi mắt Sùng đã bị cuốn vào dòng tóc rũ mềm, huyền hoặc, mượt mà. Có lẽ Sùng yêu Lìa trước hết là bởi vì yêu mái tóc ấy. Sùng tiếc lắm, nhưng chỉ biết an ủi vợ:

– Tóc cắt đi rồi, tóc lại dài ra…

***

Mùa đông không thương nhà nghèo. Hết sương muối, mưa phùn, gió bấc, giờ mùa đông lại ngẫu hứng rải tuyết trắng xóa khắp bản làng như choàng lên một mảnh khăn tang u uất. Bệnh cúm của đứa con đã biến chứng thành viêm phổi. Nó co ro như con mèo hen suyễn, thi thoảng lụ khụ ho ra từng bãi đờm nhỏ bầy nhầy máu rồi tiếp đến ghì xiết lấy cổ họng nôn khan thốc tháo. Lòng Lìa đau. Lòng Sùng xót. Cái chăn mỏng không giữ đủ ấm. Lìa rút một ôm rơm lót dưới chiếu làm đệm. Suốt ngày, hai vợ chồng quanh quẩn trông con. Chỗ gạo Lìa mua hôm xuống chợ phiên chỉ còn đủ chia ra nấu cháo vài ba hôm. Đứng ở chuồng trâu, lần thứ ba Lìa nhắc Sùng chuyện bán con trâu để có tiền mua thức ăn và đưa con đi bệnh viện. Sùng áp tai vào cái bụng căng mướt của con trâu đang nghễu ngão nhai rơm, đầu rối như bòng bong. Bất chợt, Sùng lại nhớ đến cái miệng sùi bọt mép của cha và cái lưng còng quèo không lọt nổi vào cỗ quan tài của mẹ. Những cái chết quại quằn, vật vã. Sùng lại nghĩ, giá ngày đó, nhà mình có một con trâu… Bán con trâu là mua cái khổ vào nhà. Và Sùng tưởng tượng ra một ngày nào đó, mình phải chết bằng lá ngón và cái sống lưng Lìa qua mấy mùa ngô sẽ oằn cong như ngọn núi Sáng Nhè. Vẫn đang đợi câu trả lời của chồng, Lìa tiến lại gần con trâu, bắt những cái trứng rận li ti bám trên từng cọng lông nó, khẽ hỏi lại Sùng:

– Thế nào chồng?

Sùng đã định gắt lên nhưng anh đã kịp ngăn cơn nóng giận lại:

– Ừ, bán thì bán. Sống ngày nào, biết ngày ấy.

***

Đầu buổi chiều, tuyết lác đác rơi. Giữa lúc vợ chồng Sùng đang lom khom chằm khâu những tấm bạt rách quây quanh cái chuồng lủm xủm thì ông chủ lò mổ dưới thị trấn cùng một cô gái trẻ lên nhà Sùng xem trâu, như đã hẹn. Trong lúc Sùng vừa đưa ngón tay cái ấn vào cái hông mây mẩy của con trâu như thể muốn chứng minh nó chắc thịt, vừa nói chuyện với ông chủ lò mổ bằng một thứ tiếng Kinh hơi lơ lớ thì mắt Lìa cứ đậu mãi trên mái tóc bườm xườm nhuộm đỏ chói của cô gái trẻ mặc một chiếc áo lông dày sụ, đang đứng bên gốc ban. Cô gái cũng nhìn Lìa bằng ánh mắt thân thiện. Rồi cô thao thao bắt chuyện:

– Tuyết ở đây đẹp quá, chị nhỉ. May mà em kịp lên đây đúng độ tuyết rơi.

Lìa không biết đáp lời cô gái thế nào. Lìa chỉ thấy sợ tuyết như người ta rùng mình trước con gián, con chuột. Cô gái vẫn nhí nhảnh:

– Váy chị mặc sặc sỡ quá. Chị còn cái nào không, cho em thuê một cái mặc selfie, view đẹp thế này mà không làm đôi ba pic thì phí công quá.

Lìa không hiểu những từ “seo-phì”, “viu”, “pích” mà cô gái trẻ vừa nói có nghĩa là gì? Mãi một lúc, Lìa mới rụt rè lắc đầu:

– Tôi chỉ có hai cái thôi. Nhưng một cái nữa ướt rồi.

Thế rồi, Lìa phải vào nhà cởi váy nhường cho cô gái trẻ kia mặc chụp ảnh. Cô ta bảo Lìa mặc tạm cái quần bò nhâm nhít lỗ thủng và cái áo lông thùng thình của cô ta, nhưng một lần nữa, Lìa lại lắc đầu, chỉ dám đứng núp trong nhà, quấn tạm quanh mình một miếng bạt đã rạc rài. Qua vuông cửa nhỏ bằng bàn tay, Lìa trông thấy ông chủ lò mổ đã thôi ngắm nghía con trâu và chuyển qua quàng cổ, bá vai, ôm eo, hôn tóc cô gái trẻ, nói cười đong đưa, tình tứ. Cô gái trẻ cầm chiếc điện thoại, chìa ra trước mặt, thích thú bấm liên tục. Bên cạnh, như chẳng nghe, chẳng thấy gì, Sùng cứ mải mê vuốt sống lưng con trâu, bịn rịn.

Ông chủ lò mổ đã ưng ý con trâu này rồi. Nhưng mấy hôm nay có mưa kèm tuyết, đường sá sình lầy, trơn trượt, nhiều đoạn núi đất bị sạt lở kéo dài, giao thông trở ngại nên người ta chưa vào bắt trâu được. Muộn một ngày là tính mạng của con sẽ nguy hiểm thêm một cấp. Hai vợ chồng cũng không biết làm cách nào khác được, hết đi vào, lại đi ra. Da thịt tím tái, lạnh ngắt mà ruột gan bừng nóng, cồn cào. Sương tuyết bao vây cả bản làng, mù mù, mịt mịt. Chưa bao giờ Sính Phình rét như mùa đông năm nay.

***

Đêm về, cái rét đêm rẻo cao này mới thực đáng sợ. Cái rét như lưỡi cưa tàng hình cứa sâu tận xương, tận tủy, đốn hạ dần những người yếu ớt. Gió hú hét lùng sục khắp các mái nhà trong bản như phẫn nộ đi tìm một món đồ bị lấy cắp. Tuyết rơi dày đến lút mắt cá chân người lớn. Căn nhà lụp xụp này có đứng vững qua mùa đông không? Không có bếp than sưởi nên Sùng vặn to ngọn đèn lên để ánh sáng tỏa ra trông sẽ bớt ủ dột, tăm tối hơn. Rồi hai vợ chồng Sùng co ro nằm ôm đứa con thật chặt. Sau trận ho ban nãy, giờ nó đang ngủ yên. Nằm chưa ấm chỗ, Sùng đã cởi chiếc áo khoác ra đắp thêm cho con rồi khẽ trở dậy. Biết Lìa chưa ngủ, sợ vợ lật đật chạy theo như cái đêm hôm trước, Sùng dặn vợ:

– Tôi ra thăm con trâu xem thế nào.

– Chồng lấy áo tôi mà mặc này, bên ngoài rét lắm.

– Tôi chỉ ra một chốc rồi quay vào ngay thôi.

Sùng vừa mở cửa thì như chỉ chờ có vậy, gió phục kích sẵn bên ngoài xồng xộc xông vào xô anh ngã dúi dụi. Hơi lạnh tràn vào nhà nhanh như cơn lũ quét phăng ngôi nhà sàn của họ cách đây mấy tháng. Ngược gió, Sùng cố kéo cánh cửa khép lại rồi buộc chặt bằng mấy sợi lạt giắt bên vách tường. Sùng đổ người đi về phía chuồng trâu. Chân anh đặt lên tuyết mà cảm thấy bỏng rát như đi trên đống than nóng. Sùng thắp lên một ngọn đuốc nhỏ rồi soi vào chuồng trâu. Thôi chết! Con trâu đang nằm duỗi chân, đầu úp vào chỗ rơm ăn thừa thở khọt khẹt như bị chọc tiết, miệng nó nhễu ra một thứ bọt trắng như tuyết. Sùng lấy tay xoa xoa mặt nó. Nó nhìn Sùng, mắt khép hờ rệu rã. Sùng hốt hoảng chạy vào gọi vợ. Lìa cũng hốt hoảng chạy ra. Lìa cầm đuốc soi cho Sùng rút thêm rơm khô đắp lên mình con trâu. Xem chừng nó vẫn không ấm hơn là mấy. Lìa rối rít:

– Hay tôi thắp lên một đống lửa bên ngoài này?

– Gió mạnh và rơm rạ nhiều thế này, lỡ lửa tớp thì cháy chuồng mất.

Những ngày đông rét đậm, các nhà trong bản đều mang chăn bông ra đắp cho trâu, cho bò. Nhà Sùng chỉ có một chiếc chăn bông xẹp lép ngắn cũn cỡn, ấm cổ thì hở chân, ấm chân thì hở cổ nên không nhường cho con trâu được. Cái số con trâu về phải nhà nghèo nên phải chịu khổ. Sùng thương vợ, thương con, thương cả con trâu trung thành này nữa. Vậy mà Sùng đành lòng bán nó cho người ta mổ thịt. Có lẽ con trâu đọc được ý định của vợ chồng Sùng nên nó muốn tự tử chăng? Ngồi bên cạnh con trâu trong chiếc chuồng khăn khẳn mùi nước tiểu và phân, mắt Sùng ầng ậc chảy nước. Trâu ơi, mày mà chết lúc này thì cả gia đình tao cũng phải ăn lá ngón mất thôi. Nước mắt Sùng rơi trên gương mặt con trâu. Lìa cầm đuốc, bần thần đứng bên ngoài những thanh chắn chuồng trâu, vạt áo trước ngực cũng thấm mềm vị mặn. Dường như đồng cảm với nỗi khổ con người, mắt trâu chầm chậm chớp chớp. Sùng cởi cúc áo, ôm chầm lấy cổ trâu để da anh chạm vào da trâu như người cha che chở cho đứa con bé bỏng. Sùng mong hơi ấm từ tấm lòng anh sẽ truyền sang cho con trâu tội nghiệp. Hẳn nhiên, hơi ấm tình người sẽ ấm hơn hơi ấm từ rạ rơm, gối chăn, củi lửa. Hơi ấm tình người sẽ xua đi giá lạnh mùa đông. Được Sùng ấp ủ, con trâu chầm chậm co chân gượng dậy, ọ lên một hồi mạnh mẽ rồi ghé miệng nhai một ngặm rơm đầy như muốn nói rằng nó đang dần bình phục. Sùng xát xát hai bàn tay cho nóng rồi xoa xoa khắp mình con trâu. Đêm nay, Sùng sẽ thức cùng trâu để trò chuyện cho trâu nghe. Bởi ít hôm nữa thôi, Sùng phải xa con trâu quý này rồi. Sùng thương trâu nhưng đứa con Sùng cần được chữa bệnh. Trâu sẽ hiểu cho nỗi lòng của Sùng thôi, trâu nhỉ?

Đột nhiên, có cơn gió vi vút thổi qua làm tắt phụt ngọn đuốc trên tay Lìa. Con chim cú lợn từ cành ban gầy guộc bỗng chốc lao vụt ra như mũi tên, đành đạch vỗ cánh đâm vào gió tuyết bời bời, thảm thiết kêu lên tràng dài rùng rợn. Lìa run rẩy thắp đuốc. Ngọn đuốc run rẩy sáng. Con trâu nghển cổ nhìn Sùng, ánh mắt lờ đờ, ươn ướt. Sùng cúi xuống nhìn con trâu, ánh mắt lo lắng, thẫn thờ. Con trâu khò khè thở. Một giọt nước nhỏ rỉ ra bên khóe mắt nó soi rõ ánh đuốc đang cháy trên tay Lìa, lẩy bẩy. Sùng nhận ra trong giọt nước mắt mắc lại trên đám lông chưa kịp tan vỡ của con trâu có chút gì đó vừa như mang ơn, vừa như trách móc. Sùng chạm nhẹ bờ môi lên giọt nước ấy. Con trâu gom sức rống mấy tiếng ồ ồ rồi cái đầu từ từ gục vào phần rơm đang ăn dở. Đầu gối Sùng khuỵu xuống hẳn. Đờ đẫn lay đầu con trâu, Sùng bỗng gầm khóc nức nở:

– Ơ, trâu ơi! Trâu ơi!

Đúng lúc ấy, từ trong nhà, tiếng ho của A Hồng vọng ra từng hồi lục khục. Sực nhớ ra đứa con đang nằm ngủ một mình, Lìa tém váy, tất tả chạy về phía hạt lửa đèn dầu leo lét đắm chìm giữa màn đêm nhung huyền, lạnh lẽo. Sau lưng, tiếng khóc tức tưởi của Sùng hòa lẫn tiếng con chim cú lợn rên dài ết… ết…

Tranh của họa sĩ Hoàng A Sáng

XÁC ĐÁ

 

Mẹ chọi đá thắp đèn mỡ rắn, lửa lấp ló, dập dềnh, mê mị…

Sao giam cầm ta vào bóng tối u mê? Sao trói buộc ta bởi trăm vàn nghi lễ?

Đền thờ Thần vĩnh cửu ngự trong một hang động hun hút sâu, sam sam lạnh. Phía trước là mấy căn lán lợp cỏ khô tựa lưng vào nhau, nơi làng tôi bao đời sinh sống. Phía sau là thác Buông bạc trắng từ độ cao ngút ngát đổ ập xuống dòng sông Phăng cuồng si, nóng nảy. Ngày ngày, khi mặt trời bị sóng núi Bốn Voi nuốt gọn, tôi lại lẽo đẽo theo mẹ, dò dẫm trên từng bậc rễ xanh xám rêu phong, mang lễ vật vào đền thờ và thắp lên những ngọn đèn mỡ rắn…

Ánh mặt trời rọi xuống từ cái lỗ hổng trên cao kia hệt như một sợi chỉ mỏng manh xiên qua tấm vải nhung đen mịn. Luồng sáng ấy là dấu hiệu nhận biết ngày và đêm. Đêm dày. Ngày mỏng. Ta ghét bóng tối. Có lẽ người đàn bà và đứa trẻ dưới kia thấu hiểu, nên khi màn đêm sập xuống, họ lại đến đây, tỉ mẩn thắp lên những ngọn đèn nho nhỏ. Hấp hối từng giọt sáng. Run run…

Bức tượng mang hình dáng một người đàn ông lực lưỡng, trần truồng đang đứng với tư thế hơi khum khum hai cánh tay như vừa muốn đón nhận vào mình, vừa muốn mở lòng ban phát. Lưỡi ông ta kéo dài ra thành hình con rắn hổ mang bành lượn sóng giữa gợn sáng huyền hồ, u uẩn. Mẹ tôi bảo, đó là biểu tượng của sức mạnh phi thường.

Con người tin rằng ta sinh ra vạn vật… Từng ngày, từ huyền sử truyền miệng và đôi tay của con người, ta dần hiện hình bằng những đục đẽo công phu. Con người rỏ mồ hôi. Con người rơi máu đỏ. Ta quằn quại cơn đau tìm bản ngã. Đầu mọc cổ. Cổ mọc vai. Vai mọc tay…

Tôi luôn tò mò là cái tạo vật nổi cộm nằm giữa cặp đùi cuồn cuộn cơ bắp được bao bọc kín đáo sau tấm vải trắng cuộn thành nhiều lớp của tượng Thần vĩnh cửu. Và hình dung, nó hẳn cũng giống như một thanh kiếm ngắn, nhọn và sắc, đang chĩa thẳng vào đôi mắt thao láo của tôi, đầy thách thức. Dù được dạy rằng báng bổ Thần vĩnh cửu là con đường ngắn nhất để bước lên giàn thiêu, hóa kiếp làm ngọn đèn mỡ người đời đời không bao giờ siêu thoát, tôi vẫn thè cái lưỡi tím ngoét vì ăn nhiều quả dại, lêu lêu đáp lại. Đúng lúc đọc xong kinh cầu, mẹ mở mắt, bắt gặp cạnh tượng đó. Mẹ cuống quýt bịt mồm tôi lại, hoảng hốt dập đầu lia lịa cạnh những ngón chân tượng thần đến bật máu nhòa nhện:

– Con gái con còn nhỏ dại! Xin ngài lượng thứ! Xin ngài lượng thứ! Con gái con còn nhỏ dại!

Đục đẽo. Mài giũa. Càng lúc càng tỉ mỉ. Và ta không ngờ, giữa hai đùi ta mọc ra một cái sinh thực khí nam. Chong chóc. Đó là nơi nảy mầm nỗi khổ. Nỗi khổ của ta. Nỗi khổ của con người.

Chúng tôi sống hoang dã như một bộ lạc người nguyên thủy. Mười một tuổi, con trai sẽ được cha dạy săn bắn, con gái sẽ được mẹ dạy đan lát, thêu thùa và làm trang sức bằng đá hay các loại xương thú. Riêng tôi, đến độ tuổi đó chỉ thích đầu trần, chân đất theo cha băng rừng chinh phục thú dữ. Có lần, tôi đang giương cung bắn con nai nhỏ khi mẹ nó nghe tiếng động vội nhanh chân bỏ chạy thì từ bụi cây phía xa, cha đã kịp bắn mũi tên tôi chệch ra hướng khác. Nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ, cha ôn tồn dạy, những sinh vật mới chào đời đều vô tội. Sự sắc nhọn của mũi tên là để hạ gục lũ thú trưởng thành. Nghe lời cha, ngày qua ngày, tôi tiến bộ nhanh. Cha rất đỗi tự hào về tôi. Ông chỉ tiếc không sinh ra tôi là một thằng con trai thực thụ.

Thằng Ngà trạc tuổi tôi, cao hơn tôi gần cả quả đầu nhưng cha nó cố dạy thế nào, cây cung vẫn tê liệt trong đôi tay lóng ngóng của nó. Chú Hạc, cha nó vốn là tay thợ săn làng này xưa nay chưa ai vượt qua nổi. Kỹ nghệ bắn cung của ông đạt đến độ sợi lông chim đang rơi cũng bị chẻ đôi, chằn chặn. Bởi vậy, sự non kém của thằng Ngà khiến ông vô cùng khổ tâm và hổ thẹn. Một chiều đi nhặt đá về làm trang sức, nhìn tôi vừa phăng phăng cưỡi ngựa, vừa nghiêng người ngắm bắn hạ gục ba con thỏ trắng gần như cùng lúc, thằng Ngà vứt lăn lóc chỗ đá trên tay, bàng hoàng chạy tới, nâng chúng lên, thảng thốt:

– Lũ thỏ chết rồi. Mày ác quá!

Tôi lườm thằng Ngà, sắc lẹm như mũi tên đang lao về đích. Rồi bỏ mặc tiếng khóc sụt sịt của nó, tôi lạnh lùng vung roi quất mạnh vào mông chú ngựa ô bất kham, đuổi theo con lợn lòi đang cắm đầu chạy sau những cây bụi gai lùm xùm chuyển động. Chú ngựa ô hí lên một tiếng vang rền như khúc ca xung trận làm các mạch máu trong cơ thể tôi rộn ràng hưng phấn. Ba con thỏ trắng nhãi nhép kia chỉ là những phát thử cung. Còn bây giờ, cuộc săn mới thực sự bắt đầu…

Thắp đèn. Quỳ gối. Đọc kinh. Người đàn bà kia, ngươi biết làm gì khác? Sao không kể ta nghe về cuộc sống bên ngoài hang động? Ngươi cầu nguyện mùa màng bội thu, nhưng quên miêu tả hình dáng cánh đồng. Ngươi cầu nguyện sức khỏe cho đàn con, nhưng quên kể về nụ cười của chúng. Hỡi người đàn bà kia, hãy cho ta biết tiếng nước chảy rì rầm ấy bắt nguồn từ đâu? Tiếng hú rền qua vách đá đêm qua có phải của con sói già trúng tên tẩm độc? Sợi nắng lọt vào đây nhắn nhủ ta đang đông hay hạ? Có nơi nào tối tăm và tù túng hơn hang động này chăng?

Mùa thu. Cả làng tôi, phụ nữ nhanh tay làm trang sức, đàn ông nhanh chân săn bắn thú rừng, xẻ thịt, hun khói, phơi khô, cất dành cho mùa đông dài lê thê sắp sửa. Mùa đông sang, khi gió Bấc giày xéo những cánh rừng tơ tướp, đến cả chú Hạc cưỡi ngựa cả ngày ròng còn chưa chắc tìm nổi một con lợn, huống gì những tay thợ săn tầm thường khác. Mỗi tối, làng phải tế thần mâm cỗ mười món từ mười loài vật. Khi bình minh lên, mâm cỗ sẽ được đặt bè chuối, thả trôi sông Phăng. Dân làng tin rằng đó là cách trả ơn cho đất đai, nguồn cội. Trang sức và thịt là hai thứ cần thiết nhất cho thần linh và cuộc sống của người dân ở ngôi làng này.

Tàn ngày. Tiếng côn trùng. Âm ỉ. Thê thiết. Hang động tù mù hơn. Tòng teng. Vòng cổ. Lắc tay. Ta muốn nghe bay phát ra âm thanh riêng xua tan mùi khói hương ảm đạm quyện cùng mùi thịt thú tanh nồng, uẩn khúc tựa những oan hồn cụt đầu chưa siêu thoát. Bay vẫn lặng thinh. Bay khinh thường ta xù xì, vô dụng? Hay bay đang nhớ những ngón tay thon mềm đã mài dũa cuộc đời của bay? Giá đôi tay ta có thể cử động. Giá đôi chân ta có thể bước đi…

Làng này vẫn thường chế nhạo cha tôi là tay săn hạng xoàng, cả ngày ròng băng rừng chẳng bằng vài phát thử cung của chú Hạc. Suốt cuộc đời, cha luôn lầm lũi nhem nhóm giấc mơ cắt đứt đầu một con hổ đực. Vậy mà, chưa kịp chạm đến giấc mơ, một lần đi săn trong mưa, cha bị con hổ cái ba chân xé tan xác. Bộ xương còn sót lại của người nham nhở những thớ thịt đỏ lâm thâm. Máu dưới đám cỏ khô và lá vàng kết loang loang thành vệt. Tôi đưa ngón tay chặn hai hốc mắt lại ngăn nước mắt trào ra. Phút chốc, mối căm thù loài hổ cuộn lên trong đầu tôi như cơn lốc thình lình, cuồng nộ.

Lâu rồi, ta không gặp cô bé có chiếc lưỡi màu tím. Theo chân người đàn bà dâng lễ và thắp đèn là một cậu bé chắc cũng bằng tuổi cô bé kia. Có vẻ cậu bé ngoan ngoãn và thành kính hơn. Ít ta, cậu quỳ gối ngay ngắn và đọc kinh nghiêm túc. Nhưng đôi mắt lũ trẻ, dù ti hí hay tròn xoe đều giống nhau một điểm, luôn lén nhìn trộm cái tạo vật của ta nấp sau lần vải trắng phai màu. Tò mò. Lém lỉnh.

Suốt nửa năm ròng, chú Hạc và tôi rong ruổi khắp chốn núi cao, rừng hiểm truy tìm con hổ ba chân. Dấu vết nó để lại trên nền đất ẩn hiện mơ hồ như ánh đèn đom đóm. Qua mấy lần trăng khuyết tròn, tròn khuyết, niềm hi vọng lụn xuống như vụn than sắp tắt. Một trưa, chúng tôi về làng cống nạp thú săn, mẹ nhìn mái tóc xơ xác và gương mặt rộc rạc nổi li ti mẩn đỏ của tôi, nước mắt bướt bện:

– Ở lại với mẹ, con ơi. Đằng nào cha con cũng đi rồi.

Thằng Ngà níu vạt áo nâu ngả màu bạc phếch của cha nó, mếu máo:

– Cha gầy quá. Con sợ thấy cha bị như cha con Len.

Lạnh lùng vung sức ném con lợn rừng ngấp ngoải xuống phiến đá xanh, chú Hạc kiên quyết:

– Con hổ chưa chết, chúng ta chưa về!

Và, chúng tôi lại cưỡi ngựa ra đi. Ngoài chiếc cung tên và con dao, hành trang tôi mang theo còn có chuỗi vòng đá thằng Ngà lén tặng. “Tao làm”, mặt nó đỏ như đít khỉ mùa động cỡn. Giấu cảm xúc, mặt tôi lạnh tanh dù tim đang lật bật đập nhanh. Đêm ấy, trên nền trời lơ tím, trăng như quả chín lủng lẳng sắp sửa rụng xuống hõm núi Bốn Voi. Tôi ngồi ngắm nghía chuỗi vòng đá rất lâu bên ngọn đèn khuya cháy mòn lòng bấc. Những hạt nhỏ óng ánh, theo thứ tự, được nhuộm đủ bảy màu hài hòa như dải cầu vồng. Cầu vồng đêm!

Lễ mễ tay bưng. Khệ nệ tay xách. Thịt thà la liệt. Ruồi nhặng và chuột bọ lúc nhúc từng đàn kéo về trẩy hội. Nhớp nhúa. Hôi tanh. Tùy tiện. Thân thể ta bỗng chốc trở thành chiếc giường tân hôn để sau khi no nê, chúng rủ nhau lổm ngổm bò lên, chòng ghẹo, làm tình và bừa bãi thải ra cặn bã. Chúng sinh sôi nhiều hơn lá rụng. Ta sợ chúng. Chúng sợ con người. Con người lại sợ ta. Vòng vèo. Luẩn quẩn. Ngoài miệng hang, con người bụng đã đủ no? Sao họ vẫn luôn bày biện bao thứ lễ vật dưới chân ta rồi lẩm nhẩm ca thán về cuộc đời đói khổ? Đôi gò má bủng beo của người đàn bà và những dẻ xương quai xanh trồi lên như bộ rễ cạn muốn bung ra sau lớp da vàng vọt của cậu bé đã nói lên tất cả. Đói khổ của con người có phải vì ta?

Sau những tháng ngày nếm mật nằm gai phục kích, đợi chờ, rốt cục, con hổ ba chân cũng lộ diện. Một con hổ trắng muốt không có những vằn đen. Nơi đám bòng bong rậm rì, nó nằm nhắm nghiền mắt, phì phò rên rỉ trong cơn đau đẻ. Cái bụng chềnh ễnh rập rờn chuyển động theo từng nhịp thở đau đớn, nặng nề. Khúc đuôi nó dính nhoe nhoét máu. Thoáng chút chạnh lòng, nhưng ngay sau đó, nghĩ đến cái chết không toàn thây của cha, tôi cương quyết rút mũi tên. Chú Hạc dang tay ngăn tôi lại:

– Nó sắp đẻ!

– Nó phải chết! – Tôi thằm lằm hét lên – Con của nó cũng phải chết!

Tôi vừa dứt lời cũng là lúc mũi tên đầu tiên đâm trúng ngực con hổ trắng. Con hổ vùng dậy, dõng dạc gầm lên một tiếng rồi khấp khểnh phót về phía chúng tôi. Nhanh nhẹn bám lấy những sợi rễ cây rỏ xuống trước mặt, tôi thoăn thoắt leo lên một khoảng cách an toàn rồi quấn chân thật chặt vào đấy, vươn người ra, lia lịa nả mũi tên vun vút như tiếng thông reo trong gió giật. Hàng chục mũi tên đâm khắp cơ thể mà con hổ không hề tỏ ra nao núng. Số mũi tên tôi mang theo sau lưng đã hết. Chú Hạc đứng dưới mặt đất, vẫn bình tĩnh nghiêng mình né những cú vồ uy mãnh. Đợi lúc con hổ đuối sức, chú mới kéo căng dây cung, bắn ba mũi tên vào ba vị trí tử huyệt. Con hổ nằm giãy đành đạch. Từ trên cây, tôi phi xuống đạp đòn chí mạng vào đầu nó. Ráu! Nó quay người, dùng đôi chi trước có bộ vuốt sắc nhọn cào xượt ngang mặt tôi. Chú Hạc gồng những bắp cơ cuồn cuộn bê khối đá lớn dằn ngang cổ con hổ hung hăng. Nó ngắc ngứ duỗi chân đạp đạp đám lá khô loạc xoạc mấy phát rồi chết đứ đử. Như thân cây bị bật gốc sau bão, tôi nằm rạp lên mình nó, thở hổn hển. Máu từ vết cào ran rát trên gương mặt chảy xuống bộ lông trắng lã chã. Cuộc trả thù chưa kết thúc! Tôi gượng dậy, rút con dao giắt bên hông, cắt đầu hổ mẹ rồi mổ bụng nó, lôi con hổ non sắp chào đời ra. Con hổ non cứ ngoe ngẩy trong lớp màng nhau thai bầy nhầy tưởng được tôi cứu mạng. Nó đã nhầm. Giết một mạng phải đền hai mạng! Khi tôi vung tay thì đột nhiên từ khóe mắt hổ mẹ rỉ ra một giọt nước trắng đục như sữa. Rồi hình ảnh đôi mắt hiền từ của cha và cái cuống rốn lòng thòng của con nai nhỏ năm xưa chợt ùa về. Tim tôi run lên. Con dao trong tay bủn rủn rớt xuống ụ đá tạo thành thứ âm thanh chát chúa. Tôi quỳ sụp xuống, nức nở:

– Cha ơi!

Một mình cậu bé mang lễ vật vào đây và run rẩy thắp lên những ngọn đèn mỡ rắn. Rọc rạch. Bụng cậu đang sôi. Cậu lấm lét ngó trước, ngoảnh sau rồi xé một miếng thịt, nhai nhỏn nhoẻn. Cặp môi thâm tím của cậu xoay vần theo tiếng nhai lúc sần sật, khi tóp tép trong khoang miệng. Thi thoảng, cậu bé lại lén nhìn ta mà không biết ta cũng đang nhìn cậu. Cậu bé! Cứ ăn nữa, đừng sợ. Khi cái bụng đã căng đầy, cậu chắp tay thành khẩn hối lỗi: “Cầu xin Thần vĩnh cửu thứ lỗi. Con đói quá!”.

Mỗi người một ngựa, chúng tôi thong thả trở về. Rừng đương hạ. Nắng lách qua những tán lá xanh đậm chảy xuống vai tôi miên man. Đi bên cạnh, chú Hạc mồ hôi vã ra như xối nước. Đến đoạn con suối êm đềm chảy chậm, chú bảo:

– Len, ta muốn tắm một chút. Con ở trên bờ chờ ta.

Đặt con hổ non chưa mở mắt vào một hốc cổ thụ mục ruỗng, chú Hạc nhảy ùm xuống dòng chảy trong ngăn ngắt làm những hạt nước tung tóe văng vào mặt, vào ngực tôi mát rượi. Chợt nhận ra, rất lâu rồi, tôi chưa được tắm táp và thỏa sức vẫy vùng. Dòng suối như thúc giục, như gọi mời. Tôi lẳng đầu hổ mẹ chặn ngang hốc cây nơi hổ con đang nằm co quắp, chẳng chút do dự, lao nhanh xuống nước. Chú Hạc bơi lội uyển chuyển như cá sông Phăng. Tôi e dè đứng gần bờ, khum tay múc từng chút nước ấp vào cổ, thích thú. Nước chảy đến đâu, da thịt bung dãn ra đến đó. Tôi nhìn xuống ngực mình. Hai núm vú hơi nhu nhú lên nhưng nhức như có hạt mầm đang cựa quậy sau lớp da phồng rộp ngăm ngăm. Khi tôi ngước mắt, chú Hạc đã đứng ngay trước mặt, từng giọt nước từ mái tóc loăn xoăn chảy qua cổ xuống vồng ngực vạm vỡ, căng đầy, xuống những múi cơ bụng mọng mẩy hằn lên thành luống… Mắt tôi cứ chảy theo vệt nước cho đến… thì ngượng ngùng ngoảnh mặt đi nơi khác. Vóc dáng chú còn hoàn hảo hơn cả tượng Thần vĩnh cửu. Và tôi đã kịp thấy thanh kiếm màu nâu ở giữa hai đùi chú đang từ từ chĩa lên. Chắc bởi chú đang đứng ngược dòng nước. Vuốt những lọn tóc mai lòa xòa trước trán tôi, chú Hạc đắm đuối nhìn tôi rất lâu bằng đôi mắt đen sâu thẳm sau rèm mi dày đậm. Và chú kéo tay tôi đặt lên thanh kiếm của chú, hơi thở nồng nàn, mơn man như cơn gió nồm chở đầy hương cỏ…

Sau lần ăn vụng lễ vật, cậu bé chẳng quay trở lại đây nữa. Cậu sợ ta trừng phạt? Hay cậu bị chính con người trừng phạt? Ta nhớ cậu bé. Đôi mắt ngây ngô. Bờ môi bóng mỡ. Những dẻ xương quai xanh trồi lên gầy guộc. Nỗi nhớ sắc nét như vết dao chém đá. Sao cậu không đến thăm ta? Người đàn bà lại lủi thủi thắp đèn mỡ rắn, gương mặt cúi gằm. Những ngọn đèn dù sáng lên vẫn mang trong mình ủ dột. Chúng trăng trối? Chúng buông xuôi? Chúng muốn đồng lõa với giọng kinh buồn của người đàn bà cúi mặt? Buồn hơn hoàng hôn sắp tắt. Buồn hơn gió rít đêm thâu. Buồn hơn tiếng chim lẻ bạn…

Thằng Ngà bị cấm đặt chân vào đền thờ cho đến khi tròn mười sáu tuổi. Chú Hạc chỉ lẳng lặng dúi con hổ non vào lòng nó, ra lệnh: “Nuôi đi!”. Thằng Ngà thích con hổ lắm. Nó nâng niu con hổ như báu vật. Mỗi bữa, nó đều chừa ra nửa già số thịt trong bát cơm của mình, nhường hổ non. Con hổ lớn nhanh như cây chuối sau mưa. Bộ lông trắng mềm và đôi mắt đượm buồn luôn cụp xuống chẳng gợi chút hung dữ nào như bà mẹ ba chân của nó. Tôi nhìn con hổ trắng tinh nghịch, thầm nghĩ, ta sẽ cho mi ăn uống đủ đầy và vuốt ve mi nhẹ nhàng, âu yếm. Khi mi trưởng thành, chính tay ta sẽ chặt đầu mi cúng giỗ cha ta, hổ con ạ!

Khuya lắm, sau khi người đàn bà rảo bước ra về và những ngọn đèn mỡ rắn sắp kiệt sức, một chàng trai lạ đến thăm ta. Đôi mắt. Bờ môi. Những dẻ xương quai xanh ấy. Ta như không còn tin vào mắt mình. Cậu bé năm nào đã trổ mã thành một chàng trai thực thụ. Đi bên cạnh chàng là con hổ trắng muốt lạ thường. Ánh đèn leo lét vẫn đủ cho ta thấy gương mặt chàng hiện lên vừa khôi ngô, vừa phúc hậu. Chàng quỳ xuống, ánh mắt nhìn lên phản thịt đầy, van lơn: “Con chịu đói thế nào cũng được. Nhưng tội nghiệp con hổ của con”. Con hổ trắng bước những bước dặt dẹo. Cái bụng xẹp lép lắc lư theo hai cặp chân lảo đảo. Và cả chàng trai nữa, cái bụng chàng chốc chốc lại sôi lên ọp ẹp. Tay chàng trai lập cập xé thịt cho con hổ, tuyệt nhiên không bỏ miếng nào vào miệng mình. Khi con hổ đã no, chàng ra hiệu bảo nó ra đứng ở cửa hang, canh chừng.

Mon men tiến lại gần, chàng đột ngột giật tung mảnh vài trắng quấn quanh thân thể ta rồi ôm chầm lấy ta. Hít hà. Chiếm hữu. Môi chàng trượt từ hõm cổ ta lân la xuống vồng ngực. Bàn tay chàng lần mò xuống sinh thực khí của ta. Ta chợt bừng thức như ai đó vừa đốt lên một đống lửa lớn trong hang động ẩm ướt này. Toàn thân ta nóng dần. Thoạt tiên, ta trôi đi trong niềm hoan lạc lâng lâng. Cứ thế, ta như tảng băng, tan chảy dần theo những ngón tay mê man, ma thuật…

Mẹ tôi vẫn hằng nhắc đến chuyện lấy chồng bằng ánh mắt rạng ngời. Mẹ bảo, chỉ khi lấy chồng và sinh con, phụ nữ mới thực sự hoàn thành thiên chức cao cả nhất cuộc đời mình. Lấy chồng là điều thiêng liêng mà hầu hết bọn con gái trong làng đều háo hức mong chờ, ngoại trừ tôi. Bởi mỗi lần nhớ cảnh tượng cái bụng mẹ cứ cách vài năm lại phình to nặng nề và đôi chân loèo khoèo choãi ra những bước đi rề rà, chậm chạp, tôi rất lấy làm ngán ngẩm…

Hằng năm, những thiếu nữ tròn mười sáu tuổi sẽ phải thực hiện nghi lễ Hiến trinh ở đền thờ Thần vĩnh cửu…

Mọi thứ khởi đầu từ sáng sớm. Những chàng trai chưa vợ dậy trước khi gà rừng gáy, đi hái những cánh hoa rừng sặc sỡ đẫm ướt sương mai, mang về thả vào chiếc bồn đá đựng đầy nước suối trong văn vắt. Hôm ấy đến lượt Vải, chị họ tôi, hiến trinh. Chỉ trai tân và trưởng làng được phép đến dự ngày lễ trọng đại này. Nhưng từ tối hôm trước, tôi đã đến đây, trèo lên một hõm đá kín đáo, ngả lưng ngủ tạm và hồi hộp chờ thời khắc ấy…

Tiếng trống đì đùng vang lên. Tự tay cởi bỏ hết xiêm y, chị Vải hòa mình vào bồn nước bập bềnh cánh hoa, tắm rửa thật sạch sẽ, thơm tho rồi chậm rãi tiến đến bên tượng Thần vĩnh cửu, quỳ xuống làm lễ trước sự chứng kiến của toàn thể trai tân và trưởng làng. Sau nghi thức tế tự, tấm vải trắng quấn quanh đùi tượng Thần vĩnh cửu được gỡ xuống, trải phẳng phiu trên bục đá hình vuông vẫn thường đặt lễ vật. Thanh kiếm của tượng Thần vĩnh cửu lồ lộ chìa ra. Trưởng làng bôi lên đó một thứ nhựa cây trơn tru, mềm mượt. Chị Vải bước lên bục đá và… Tôi không biết phải diễn tả hành động đáng sợ ấy thế nào. Nhưng tôi biết chị Vải rất đau. Mắt chị nhắm nghiền, hai hàm răng nghiến chặt. Trong chớp mắt, cái kẽ nứt giữa hai đùi chị đã nuốt gọn lấy thanh kiếm tượng thần. Đám trai tân như nín thở chờ kết quả. Điều gì sẽ diễn ra tiếp theo? Một giọt máu từ kẽ nứt ấy chảy ra, rơi xuống tấm vải trắng, màu cánh hoa đỗ quyên, hồng thổn thức. Những chàng trai có mặt ở đó đồng loạt hô to:

– Xin hãy chọn ta!

– Xin hãy chọn ta!

Lượm lấy mảnh vải trắng quấn quanh người, chị Vải cười trong những giọt nước mắt mà tôi nghĩ là vừa đau rát, vừa hãnh diện. Chị chỉ tay về phía anh Sừng:

– Sừng ơi, em chọn anh.

Trần truồng. Cô gái đứng trước mặt ta, thân thể tỏa hương hoa dìu dặt. Hàng trăm lần. Hàng nghìn lần. Ta vẫn sợ cảm giác ấy. Cô gái! Chớ đụng vào ta bằng đôi tay và bầu ngực ướt. Chớ hôn môi ta bằng đôi môi đỏ. Cô gái không nghe lời ta. Nàng bắt đầu mở cái khe hẹp giữa hai chân mình nuốt lấy sinh thực khí của ta, từng chút một. Tùng chút một. Sâu thẳm. Ta ớn lạnh như vô số sâu bọ đang râm ran gặm nhấm từng phần thân thể. Bứt rứt. Ám ảnh. Hãy tránh ra! Tránh ra! Ta quằn quại mường tượng hơi ấm bàn tay chàng trai để trốn chạy khoảnh khắc khủng khiếp này. Chàng trai đang ở đâu trong số đám trai làng kia?

Trưởng làng thông báo rằng cái Vừng và anh Than đi vớt củi rều, bị trượt chân rơi xuống sông Phăng mất xác. Đầu tôi nóng như có hàng trăm ngọn đèn mỡ rắn đang cháy bên trong, bừng ran, sửng sốt. Cái Vừng là đứa bạn thân với thằng Ngà nhất trong ngôi làng này. Bởi vậy, thằng Ngà trở nên thơ thẩn như bị ma mượn mất hồn. Tôi đến bên an ủi nó:

– Đừng buồn nữa.

Thằng Ngà òa lên khóc tức tưởi:

– Mày biết tại sao họ chết không, Len?

Thằng Ngà thủ thỉ kể, cái Vừng rất yêu anh Than. Những đêm không trăng, họ thường rủ nhau ra sông Phăng xem bầy cá mù phát sáng. Càng gần tuổi mười sáu, gương mặt Vừng càng hằn sâu những nét ưu phiền. Và rồi, ngày Vừng hiến trinh cũng tới. Tiếng trống thúc đuổi đôi chân Vừng lẩy bẩy bước lên bục đá hình vuông. Cả mảnh vải trắng trải ngay ngắn bên dưới và những đôi mắt của đám trai tân xung quanh đều đang ngóng đợi. Chưa bao giờ thằng Ngà thấy có một mảnh vải trắng đến vậy, trắng nhói mắt. Đã tàn hồi hương mà mảnh vải vẫn trắng vô tình. Trưởng làng ra lệnh hành hình. Lũ trai tân ùa vào trói tay, trói chân Vừng thật chặt bằng những sợi dây chặc chìu dẻo quéo. Rồi trưởng làng lấy cái kim to bằng búi gai bồ kết xâu sẵn chỉ đỏ mà ông vẫn thường mang theo bên mình mỗi khi chủ trì lễ Hiến trinh, khâu cái kẽ nứt giữa hai đùi Vừng lại. Mặc cho Vừng giãy khóc vật vã, đôi tay rắn rỏi của trưởng làng vẫn không ngừng khâu và siết. Siết và khâu. Đoạn, trưởng làng hất mặt ra hiệu cho đám thanh niên khênh Vừng, qua ngách nhỏ đằng sau tượng thần, đi lên đỉnh thác Buông và lấy đà ném thẳng xuống dòng sông Phăng phẫn nộ. Ngay sau đó, anh Than cũng gọi tên Vừng và bay xuống theo. Diễn biến lễ Hiến trinh là tuyệt mật. Ai tiết lộ cho một cô gái còn trinh biết sẽ bị cắt lưỡi tế thần!

Luật lệ. Hình phạt. Một chiếc kim giết chết một cuộc đời. Một bàn tay nhuốm máu tanh đồng loại. Cô gái ấy vì đâu nên nỗi? Chính con người hủy hoại lẫn nhau? Hay sự xuất hiện của ta là khởi nguồn sâu xa cho bóng đen tội lỗi?

Hôm nay, tôi tròn mười sáu, cũng là ngày tôi làm lễ Hiến trinh. Tắm nước cánh hoa xong, tôi rề rà tiến đến tượng Thần vĩnh cửu, lòng bỗng bồn chồn. Tôi sắp lấy chồng? Tôi phải chọn ai? Không! Tôi không muốn như mẹ tôi, cứ cách vài năm, cái bụng lại trương phềnh như một con cóc chết ngâm nước. Tôi chỉ muốn tự do trên lưng ngựa, thong dong xẻ núi, băng rừng. Tôi chưa từng rung động trước thằng con trai nào, kể cả thằng Ngà. Tại sao giữa hai đùi tôi là một kẽ nứt mà không phải một thanh kiếm? Chợt nhớ cái Vừng, ngực tôi nhói lên nhức nhối. Tấm vải trắng muốt đã được phủ lên bục đá trước mặt, rũ mềm và thanh thản. Chẳng hiểu sao, tôi tưởng tượng ra tàng hình trong màu trắng tinh khôi ấy là một cái miệng khổng lồ đang chực nuốt lấy những giọt máu màu cánh hoa đỗ quyên rỉ ra từ kẽ nứt của tôi. Tôi không sợ đau. Tôi chỉ thấy kinh tởm. Que hương bên cạnh đã cháy già một nửa. Tượng Thần vĩnh cửu đang nhìn tôi. Trai làng đang nhìn tôi. Và cả thanh kiếm nhẵn thín từng dính máu bao trinh nữ kia như cũng trổ ra một con mắt sắc lẹm vừa giễu cợt, vừa đe dọa.

Chẳng phải cô gái ngày xưa vẫn thường theo người đàn bà đến thắp đèn mỡ rắn đây sao? Đến lượt nàng? Đến lượt nàng phải thực hiện điều quái ác kia? Hãy để ta yên! Xin đừng đụng chạm vào ta! Hoặc hãy xô đổ ta còn hơn đày đọa thân ta bằng cách đó. Cô gái…

Chân tôi lừng khừng đặt lên bục đá. Tôi liếc tượng Thần vĩnh cửu rồi lăm lăm nhìn thanh kiếm sắp chọc vào kẽ nứt giữa hai đùi mình mà chỉ chút nữa thôi, nó sẽ quyết định số phận đời tôi. Không! Nó không xứng đáng là thanh kiếm. Nó chỉ là cục đá thừa vô tích sự. Vậy mà bao thiếu nữ phải cắn răng chịu đau hiến dâng cho nó. Cục đá thừa. Chỉ là cục đá thừa thôi! Vậy mà dân làng luôn tôn thờ nó là cội nguồn hạnh phúc. Tôi thầm trách bậc cố nhân nào đó khi tạc bức tượng này đã táy máy đục thêm cái sinh thực khí nam kia? Đầu tôi rối vò. Khói hương là đà bay, xộc vào cánh mũi tôi nưng nức như đang hối thúc. Từng mao mạch hai bên thái dương tôi ùn ùn chuyển động như dòng sông Phăng mùa lũ. Bất chợt, tôi lùi bước, gồng mình bê bục đá lên cao quá đầu rồi ném mạnh…

Cảm ơn cô gái đã giải thoát đời ta. Cuối cùng, cái sinh thực khí nam thừa thãi mà ta không cần đến đã đứt lìa khỏi thân thể. Đứt lìa hoàn toàn. Đứt lìa mãi mãi. Đau! Ta chịu được nỗi đau thân xác này. Đau! Một kẽ nứt mở ra như hạt giống tách vỏ chuẩn bị nảy bung mầm sống. Từ ấy, ta sẽ tự tái sinh trong hình hài đúng nghĩa. Ta sẽ tái sinh! Ta sẽ tái sinh!

Đám trai tân vây quanh nhìn tôi, sững sờ. Vằn mắt nổi đỏ, tôi hằm hằm cúi xuống nhặt lấy cục đá thừa, giơ lên, bóp mạnh. Và đột nhiên cười giòn giã, tôi tuyên bố:

– Từ nay, sẽ không ai phải đau khổ vì ngươi!

– Len! – Tiếng trưởng làng hộc tốc rú lên như con hổ trọng thương – Ngươi làm gì vậy? Mau bắt con quỷ cái này lại.

Mặc thân thể lõa lồ, tôi chạy theo ngách nhỏ sâu thẳm dẫn ra thác Buông. Từ đây, không gợn đắn đo, tôi ung dung dang hai tay bay xuống dòng sông Phăng bên dưới. Tôi đang bay, đang bay. Bay xuống sông Phăng ở độ cao này cũng đồng nghĩa với việc đang tự nguyện nộp mạng cho địa ngục. Tôi đã nhìn thấy gương mặt Vừng hiện ra với đôi mắt trong veo, nụ cười e ấp. Vừng ơi…

Linh hồn ta chui qua kẽ nứt, lơ lửng bay theo cô gái…

Những đợt nước tát vào mặt, vào ngực nhói tức nhắc tôi rằng tôi vẫn còn tồn tại giữa lằn ranh giới hai miền sống – chết. Và tôi giống như một quả trứng luộc trong luồng nước cuộn trào ùng ục. Cánh tay nhức mỏi của tôi cố quờ quật ngoi đầu lên khỏi mặt nước đang cuồng điên cào xé, giằng giật. Mồm tôi hớp vội từng ngụm không khí rát bỏng. Nước. Bao vây tôi là nước. Nước, khi bàng bạc như ánh trăng, khi hoang hoải như ráng mỡ gà báo bão. Mắt tôi nhòe đi. Toàn thân rã rời…

Cô gái, chìa tay ra… Sao bàn tay ta lại không thể nắm lấy tay nàng thế này? Ta nhìn lại mình. Ta không còn là pho tượng đá. Ta giờ là khói. Ta giờ là sương. Phù du. Mỏng mảnh…

Xa xa, đang tiến lại một đám mây màu trắng. Tay tôi vớ được đám mây… Đám mây nhung mềm, ướt rượt trôi đi hư ảo, bồng bềnh. Tôi gắng gượng trèo lên đám mây bằng chút tàn sức chập chờn, sau rốt. Như có phép màu, một bàn tay nắm lấy tay tôi… Là Thần vĩnh cửu? Tôi lả đi… Buông… buông… buông… buông…

Cô gái, trước lúc lả đi, nàng có còn đủ tỉnh táo để nhìn thấy những ai cứu nàng thoát khỏi cái chết trong gang tấc không?

Mắt tôi không mở ra nổi. Chờn vờn hiện lên trong trí nhớ là dòng sông tàn độc cuối trôi tất thảy. Cuốn trôi đám mây. Cuốn trôi…

Cô gái, hãy nói với ta, đây chỉ là một cơn ác mộng…

Cuốn trôi cả thằng Ngà đi mất. Họ đã cứu sống tôi nhưng không cứu nổi chính mình. Bất giác, tôi giật tỉnh, miệng ú ớ không thành tiếng…

Cô gái! Ta sẽ thay nàng trôi theo dòng nước sông Phăng, đi tìm linh hồn chàng trai và con hổ trắng…

Ta là bức tượng đàn ông mang trái tim phụ nữ…

Và ta đã yêu…

PHAN ĐỨC LỘC

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *