Tình yêu văn hóa miệt vườn thấm đẫm thơ 1-2-3 Nguyễn Đinh Văn Hiếu

Vanvn- Xuất thân thầy giáo mang tâm hồn thi sĩ, sinh ra và lớn lên ở vùng đất Trà Vinh phong phú, đa dạng về văn hóa, nên thế giới thơ 1-2-3 của Nguyễn Đinh Văn Hiếu vừa nghiêm cẩn vừa lãng mạn, vừa nắm bắt những vấn đề thế sự vừa có chiều sâu suy nghiệm tâm thức. Có ba đề tài trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ anh: cội nguồn quê hương, tình yêu gia đình và lứa đôi, những trăn trở về đời sống xã hội hiện đại…

Nhà thơ Nguyễn Đinh Văn Hiếu ở Trà Vinh

Bước vào làng văn, đối với người sáng tác, bút danh rất quan trọng. Điều tối kỵ là trùng bút danh những bậc đi trước có tên tuổi trên văn đàn. Dù biết họ tên khai sinh là do ông bà cha mẹ mình đặt, ai cũng muốn giữ làm kỷ niệm, nhưng khi đã xuất hiện trong thế giới sáng tạo thì phải có ý thức chọn cho mình cái bút danh khác biệt, có thể lấy tên thật, có thể lấy tên mới nhưng tuyệt đối tránh trùng lắp. Với nhà thơ trẻ Nguyễn Đinh Văn Hiếu cũng vậy.

Khi nhận được chùm thơ 1-2-3 đầu tiên khá thú vị ký tên Nguyễn Văn Hiếu từ Trà Vinh gửi cho Văn Học Sài Gòn, tôi tìm cách liên lạc với anh. Trong làng văn đã từng có những nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa kỳ cựu ký tên Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Hiếu, Văn Hiếu nên tôi góp ý với anh nên đổi bút danh. Tôi hỏi mẹ anh họ gì. Anh bảo họ Đinh. Thế là cái tên Nguyễn Đinh Văn Hiếu đã xuất hiện trên thi đàn. Điều đó cho thấy anh là người nhanh nhạy, ý thức được trách nhiệm cầm bút từ cái bút danh. Tôi cũng cảm thấy rất vui như khi góp ý để những bút danh khác được trình làng: Trần Võ Thành Văn, Doãn Minh Trịnh, Lê Đỗ Lan Anh, Văn Lê Tám, Võ Hoàng Phương, Lê Tuyết Lan,…

Thơ 1-2-3 là thể thơ mới thuần Việt, vừa tự do vừa quy phạm, không phải người làm thơ nào cũng dễ đồng cảm và thể hiện, nếu không tìm tòi khám phá, đam mê thử sức. Xuất thân thầy giáo mang tâm hồn thi sĩ, sinh ra và lớn lên ở vùng đất Trà Vinh phong phú, đa dạng về văn hóa, nên thế giới thơ 1-2-3 của Nguyễn Đinh Văn Hiếu vừa nghiêm cẩn vừa lãng mạn, vừa nắm bắt những vấn đề thế sự vừa có chiều sâu suy nghiệm tâm thức. Có ba đề tài trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong thơ anh: cội nguồn quê hương, tình yêu gia đình và lứa đôi, những trăn trở về đời sống xã hội hiện đại.

Đất mới phương Nam huyền thoại là đề tài và thi hứng không bao giờ cạn. Bằng sự nâng niu, trân trọng mảnh đất nơi mình sinh trưởng, Nguyễn Đinh Văn Hiếu đã tái hiện sinh động đời sống văn hóa miệt vườn, mà giới hạn ở đây là Trà Vinh quê hương với những địa danh, câu chuyện mộc mạc và bí ẩn. Đó là truyền thuyết ao Bà Om “Mây mẩy vòm ngực căng tròn mồ hôi áp dính lần nếp áo/ Cổ thụ cuồn cuộn nổi hòn bao ngần ấy vẻ đẹp trần gian/ Từ cuộc thi hồi nảo hồi nào thay đổi tục lệ cưới xin”. Đó là sự mê hoặc của “Vọng cổ xuống hò váng mặt sông lênh láng cống xự xang/ Dấu chân cha ông mở đất hiện trong hình hài bãi tiên/ Mặc kệ con vịt con gà, vải vóc sau xuồng vừa bị cuỗm”. Và đó là sự giao hòa, quyến rũ của thiên nhiên, ẩm thực lẫn nghệ thuật và nhan sắc:

Theo em qua Long Bình một tối mưa

 

Rượu Xuân Thạnh đầu bờ mới nhắm đã tê đầu lưỡi

Miếng tôm khô Vinh Kim mặn mòi thấm dịu bờ môi

 

Rẽ giồng cát hai bên xanh mượt đưa anh vào phum sóc

Hôi hổi nồi canh xiêm lo rau rừng khói bốc đến tận lòng

Kèn trống rộn ràng xui điệu Răm Vông phập phồng mưa ấm.

Ẩn sâu dưới lớp bụi thời gian hay đang hiện hữu trong đời sống thì mọi giá trị văn hóa đều là cơ sở kiến tạo thế giới này. Đó cũng là chất liệu phong phú muôn đời cho thi ca. Nhà thơ có bổn phận khai quật, bảo tồn những giá trị văn hóa ấy bằng ngôn ngữ riêng mình. Biết lắng “Nghe thời gian hóa đá xa xăm” Nguyễn Đinh Văn Hiếu đã tái hiện vẻ đẹp ngôi chùa Khmer cổ kính lớn nhất miền Tây ở Trà Vinh:

Sấp hôm mai gom lại dưới mái vòm

Trời cong vút ngàn năm trầm tích

 

Lớp lớp rêu phong phủ bào thân gạch vữa

Phật nghiêng tai nghe trần thế sắc không

Chùa Vàm Ray chiều đổ chụp mênh mông.

Và cả những di sản văn hóa phi vật thể kỳ bí dưới góc nhìn của nhà thơ cũng khác biệt:

Khi đèn lồng gió lên cao

 

Ok-om-bok trăng tròn gương mặt thiếu nữ

Điệu Lâm Thôn uốn cong từng ngón tay thon

 

Long Bình hò dô dậy khúc sông thúc ghe ngo tóe sóng

Vị cốm dẹp trộn dừa béo ngọt môi ngon

Em kiêu kỳ bước ra từ huyền thoại ao Vuông.

Cảm thức được vẻ đẹp văn hóa cội nguồn, Nguyễn Đinh Văn Hiếu tỏ lòng thành kính với tổ tiên: “Nhớ mấy thuở cha ông chèo ghe đặt lợp/ Khai phá Gia Định – Nhà Bè lau sậy hoang vu/ Thành hình hài nên hòn ngọc long lanh”.

Không chỉ nhớ ơn người xưa khẩn hoang mở đất tạo dựng hình hài đất nước hôm nay, anh còn biết ơn và thấu hiểu nỗi lòng của người sinh trưởng nên mình:

Những giọt ấm nồng không để gọi tên

 

Giọt nước mắt má giấu hằng thế kỷ

Ướt lòng con hôm mai khi chăm chút đàn con

 

Con có thấy đâu má quay mặt về phía không

Để ngăn lệ chảy trong bờ mi sâu hoắm

Sao giờ đau thắt ngực ngày sau?

Chẳng hiểu do đâu người Nam Bộ hay gọi mẹ bằng má, nghe mênh mang như sông nước Cửu Long. Hình ảnh của bà má cũng có gì đó khác biệt như văn hóa đất mới phương Nam, mà Nguyễn Đinh Văn Hiếu dựng chân dung và lý lịch: “Học hết lớp ba trường làng, mười một tuổi đi ở đợ/ Đọc truyện Quỳnh Dao, Hồ Biểu Chánh lúc việc lơi”, rồi từ văn học tới ảnh hưởng của sân khấu cải lương: “Tóc thả đen dài như tóc Thanh Nga/ Con vừa tròn tháng má nách hai bên hai bao lúa”. Từ trong khó nhọc của “Sợi dây thâm tình rung nhịp yêu thương” má đã dạy cho con sự tự lập vững chãi để “Một ngày má buông tay, xa ngái/ Con cựa mình, quẫy đạp, vịn bóng má bước đi…”.

Thủ thỉ phù sa – tập thơ 1-2-3 của Nguyễn Đinh Văn Hiếu, NXB Hội Nhà văn 2022

Thơ không ở đâu xa mà ngay chính trong ngôi nhà mình, là tình cảm của ông bà cha mẹ, là những kỷ niệm đẹp nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chẳng những văn bản hóa thành thơ mà Nguyễn Đinh Văn Hiếu còn cho thấy những góc nhìn tinh tế của một thi sĩ giàu lòng yêu thương và trắc ẩn, như với cây me trước nhà nơi ba má từng hẹn hò nhau hay những ngày tuổi thơ trốn học bắn bi:

Tuổi nhỏ dại khờ, con chỉ biết mê chơi

 

Thường trốn học đi bắn bi cùng chúng bạn

Tụm bảy tụm năm chơi trò năm mười, đánh trận

 

Ba lo lắng, bỏ làm thuê đi kiếm từ đầu trên xóm dưới

Roi đét vào mông con nước mắt lưng tròng

Ngọn roi đời rát điếng hơn cả roi ba.

Hướng về thế hệ trước nữa, Nguyễn Đinh Văn Hiếu cũng có những bài thơ xúc động, đầy tình yêu thương của người cháu với ông bà:

Ngày tuổi nhỏ, ông thường dẫn con đi từ sớm

 

Đút từng muỗng cơm thịt sườn xé nhỏ chan nước tương

Ngậm viên nước đá tắm vị cà phê đăng đắng

 

Ngồi nghe ông nói chuyện cùng bạn bè đông tây kim cổ

Âm ấm giọng say sưa lời thấm đẫm không gian quê

Rồi một ngày hình bóng ông mãi đẩu đâu mây trời thăm thẳm.

Điều bất ngờ, khác sự chăm chút, sảng khoái của người ông thì với người bà lại nghiêm khắc roi vọt mà anh “đau” ngọt khi lớn lên:

Bà không đánh mà con đau nhoi nhói

 

Những lúc giành giật đồ chơi em

Bốc vội miếng bánh em cầm trên tay vì đói

 

Bà biểu nằm cúi giữ thăng bằng cây roi trên đít

Con thút thít trườn dài úp mặt chờ roi

Giây phút lặng chờ con đâu biết bà đau!

Lắng lòng nghiệm sinh về thế hệ trước, chuyển sang thơ tình yêu lứa đôi Nguyễn Đinh Văn Hiếu bay bổng trong từng nhịp điệu con chữ: “Bước khoan thai dìu dặt đón xuân sang/ Phố phường thay áo màu tươi thắm/ Ríu rít chuyền cành chim gọi nhau”. Một khung cảnh mùa xuân an vui và thơ mộng mang tinh thần văn hóa miền Tây sông nước dù đổi mới đồng lên phố nhưng vẫn giữ bản sắc riêng: “Trăm bướm hoa từ tà áo bay ra/ Dìu dặt nồng nàn phồng phập hoan ca/ Anh khảy đàn, em chuyển điệu nam xuân”. Không gian văn hóa miệt vườn ấy còn đậm đặc trong những bài thơ tình khác của anh:

Trăng ẩn mình treo nỗi nhớ hớ hênh

 

Mấy đận hẹn hò em vui trăng rải vàng gốc mạ

Triền đê ướt lời thề tay luồn tay chẳng ấm sương sa

 

Ngồi nhìn sông đêm từ con rạch hết nước ròng nước lớn

Trăng trầm mình giấu nỗi nhớ khúc sông sâu

Giong cánh buồm anh say sóng mắt suốt canh thâu.

Hết hẹn hò nhớ nhung bên con rạch nước ròng nước lớn như “trăng trầm mình” đến khi mừng vui đón được em dìa trong “vách lá hóa dinh thự nguy nga” cũng đầy sắc thái thiên nhiên và con người Nam Bộ:

Hí ngựa ô ngoài ngõ đón em dìa

 

Khớp bạc anh tra, yên vàng cương gấm kiệu vang

Mặc kệ nẻo xa, ta bà rừng rú nước thiêng

 

Vòng núi mộng đồi mơ nhẩn nhơ suối đợi sang rừng nhớ

Biển hẹn hò dắt nhau mắt nhấn chìm trong mắt trong môi

Một phen theo nhau dìa vách lá hóa dinh thự nguy nga.

Nguyễn Đinh Văn Hiếu còn dành nhiều vần thơ tinh tế, ấm áp cho vợ cho con. Như khi mùa Giáng sinh đến, anh chia sẻ với cách nhìn hồn nhiên của tuổi thơ:

Giáng sinh lung linh diệu kỳ từ đâu hả mẹ?

 

Con chỉ muốn nhận quà từ tay ông già Noel

Để chúng bạn trầm trồ tròn xoe mắt

 

Buổi sáng mùa đông, mẹ góp tiền mua dịch vụ

Con tí tửng ôm quà về sà vào lòng mẹ thỏ thẻ:

“Quà của bà già Noel gửi ông già Noel tặng con!?”

Với người Nam Bộ, cải lương không chỉ là nghệ thuật giải trí mà còn là đặc sản văn hóa tinh thần ăn sâu tiềm thức, thậm chí còn “hóa thân” cười khóc với từng số phận: “Đến lúc mang thai, em thường vuốt ve cái bụng/ Nói âm thầm một mình đủ thứ trên đời cho bào thai nghe/ Anh mở Đời cô Lựu, em ngượng ngùng: thương cô Lựu quá anh!”

Nhà thơ lớn Chế Lan Viên từng viết rằng “Anh là tháp Bay-on bốn mặt/ Giấu đi ba, còn lại đấy là anh”, bây giờ bạn thơ trẻ Nguyễn Đinh Văn Hiếu trước bốn quân bài thì đủ cả “Anh là cơ rô và chính anh cũng chuồn bích”. Nhận thức được mọi hỉ nộ ái ố đều có trong con người mình chứng tỏ đã trưởng thành. Nhận thức ấy của anh cả khi đối diện trang viết “Trống rỗng, hụt hẫng/ Chỉ còn trang giấy trắng với sóng chữ cuộn trào” lẫn trên sân khấu đời người: “Vai diễn thứ nhất, thứ hai, thứ ba khóc cười nhân thế/ Vai diễn thứ mười, năm mươi, một trăm nhân thế khóc cười/ Hóa vai diễn hết mình – em trở thành tuyệt sắc lung linh”. Thế nhưng không phải hạnh phúc bao giờ cũng vẹn tròn với người nghệ sĩ:

Vai tuồng nào cho đời em?

 

Em nhập vai nữ hoàng trong tích hương xa

Nàng tiểu thư đài các kiêu kì vở tuồng xã hội

 

Cởi lớp phấn son, xiêm y, trâm cài, mũ mão

Ngồi đối diện mình trống trơ trống tróc

Em sắm vai gì trong vở đời sóng gió ba đào?

Hỏi cũng là đã trả lời. Sự đồng cảm, thấu hiểu đằng sau ánh hào quang hư ảo của vai tuồng ấy anh còn chia sẻ với người nghệ sĩ phiêu bạt mang âm thanh dâng hiến cho đời:

Tìm tiếng đàn hay tiếng lòng tri kỷ phương xa?

 

Đêm Đôn Châu nghiêng mình thao thức

Nghẹn vầng trăng chếch bóng cuối trời

 

Vẳng đàn tranh người nghệ sĩ lấy viễn xứ làm nhà

Tình tình tình “Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi”

Tang tang tang – tình quê rưng rức lệ Châu sa…

Công nghệ hiện đại mang lại cho con người nhiều tiện ích, nhưng sự lạm dụng nó cũng đã làm mai một dần những vẻ đẹp dung dị của đời sống văn hóa cổ truyền. “Âm thanh từ loa di động nhai mòn cả nhựa đường/ Người bán hàng đeo tai nghe vô tư lướt mạng” một cách vô cảm đã làm mất dần tiếng rao ngọt ngào quen thuộc, cũng như “Giờ trẻ hát duyên phận, đường cong, đắp mộ cuộc tình/ Kèm những lời tán dương độc địa của người lớn/ Đồng dao giấu mình vào bùn quánh đất quê”. Không chỉ tiếc nuối, cảnh tỉnh mà thơ Nguyễn Đinh Văn Hiếu còn lưu giữ, đánh thức những giá trị văn hóa dân gian qua những trò chơi tuổi thơ như “Từng nấc, từng nấc – dù vấp – không vội không vàng/ Nấc thang lò cò liền lạc nối nhau/ Từng bước thật nhỏ trong đời đưa con dần ra đường lớn”.

Ngoài đời sống văn hóa thì đời sống xã hội đầy vui buồn cũng là mối quan tâm trong thơ 1-2-3 của Nguyễn Đinh Văn Hiếu: “Nhiều lần trong ngày lên cơn ớn lạnh/ Mưa lũ miền Trung ngập tới nóc nhà/ Chỗ nào hai đứa mình ngồi hát lý mười thương?” Không chỉ đời sống tinh thần biến mất mà cả sinh mệnh con người cũng vùi lấp trong cơn thịnh nộ của thiên tai:

Tai ương từ đâu buồn phủ trắng trời  

 

Mưa trút đầy, lũ lênh láng dòng trôi

Không dò nổi đầu nguồn, cuối nguồn con nước chảy

 

Đất lở chảy tràn bùn sệt ôm lấy chân người

Rừng phòng hộ tiêu điều sụt một mảng đồi vùi lấp

Sự thâm độc của con người hơn thâm độc của thiên nhiên.

Sao lại “Sự thâm độc của con người hơn thâm độc của thiên nhiên”? Có lẽ mỗi chúng ta đều có thể tự trả lời cho “Tang thương này đau vọng đến trời xanh” khi mà “Nỗi đau điếng đến xé lòng xót bao mạng người đã ra đi/ Mênh mênh mang mang nước cuốn hay vùi sâu bùn đất”!

Một sự ngẫu nhiên là Nguyễn Đinh Văn Hiếu tìm đến thơ 1-2-3 khi loài người lâm nạn đại dịch Covid-19 bùng phát. Những người làm công tác y tế đã trở thành nhân vật trung tâm chống dịch. Họ cũng trở thành nguồn cảm hứng cho văn học nghệ thuật, nhất là những người phụ nữ mặc áo blouse ở tuyến đầu: “Sáng rực hình ảnh thơ blouse trắng thiên thần/ Không tìm được từ ngữ nào đủ khả năng lột tả/ Khoảng trắng thơ… dành suy tôn và ca tụng em”. Đẹp hơn nữa khi một mùa thu khác thường lại đến: “Em khoác áo thu trắng thay cho áo thu vàng/ Khi ngày nối ngày các ca nhiễm Covid-19 nhiều hơn/ Không thiết thời gian để lo những điều thường nhật”. Đại dịch cũng là khoảng thời gian tĩnh lặng để con người nhìn lại mình trong cuộc đời này như Nguyễn Đinh Văn Hiếu cảm thức:

Có phút giây bỗng rơi tự do

 

Bồng bềnh những ý nghĩ mông lung, vô định

Chênh chao nụ cười, ánh mắt, nỗi buồn

 

Miên man miên man giữa cõi bờ hư thực

Cảm giác hụt hẫng chới với không gian, thời gian

Ta rơi tự do trong chính suy nghĩ của mình.

Khi ý thức được sự chênh chao, hụt hẫng “rơi tự do trong chính suy nghĩ của mình” chứng tỏ con người đã trưởng thành. Trưởng thành trong cách nghĩ. Trưởng thành trong cách ứng xử với đời sống và trang văn. Nhờ sự trưởng thành ấy, nhà thơ trẻ Nguyễn Đinh Văn Hiếu từng bước khẳng định mình qua thơ 1-2-3 với chiều sâu tâm thức và thấm đẫm tình yêu văn hóa miệt vườn đã sinh trưởng nuôi dưỡng nên anh, một tài năng thơ đáng quý của đất Trà Vinh!

PHAN HOÀNG

Báo Văn Nghệ 12/2022

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *