Thơ Nguyễn Trường Thọ: Lặn vào mưa nắng hoà tan trong ngần

Vanvn- “Là mây trắng là khói lam/ Lặn vào mưa nắng hoà tan trong ngần/ Hiểm nguy khi Tổ quốc cần/ Đồng lòng không tiếc muôn lần máu xương”.

Nhà thơ Nguyễn Trường Thọ là Hội Viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện sống và viết tại TP Vinh, Nghệ An. Ông đã xuất bản các tập thơ: Lắng lại phù sa, NXB Nghệ An, năm 2004; Lặng lẽ thương, NXB Hội Nhà văn, 2006; Đặt tay lên ngực trống đồng, NXB Hội Nhà văn, 2014; Phía bên này của mùa thu, NXB Nghệ An, 2020.

Ông nhận được một số giải thưởng như: Giải thưởng Cuộc thi Thơ Lục bát Ngàn năm Thương nhớ của Báo Văn Nghệ; Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương năm 2010.

Vanvn.vn trân trọng giới thiệu chùm thơ đậm hơi thở cuộc sống, tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Nguyễn Trường Thọ.

Nhà thơ Nguyễn Trường Thọ

Chuyên đề Văn học Nghệ An:

>> Ba nhà folklore xứ Nghệ

>> Chùm thơ song ngữ Việt – Anh của Trần Thu Hà

>> Tản văn của Phạm Thùy Vinh thao thức với cội nguồn

>> Thơ Đậu Phi Nam: Giọt đắng từ tâm ngọt cay câu ví

>> Xốn xang kỷ niệm – Ký của Hồ Ngọc Quang

>> Thiên tính nữ và cá tính sáng tạo trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương

>> Cát mặn – Truyện ngắn của Nguyễn Thị Phước

>> Nhớ nhà thơ Võ Thanh An của xứ Nghệ

>> Chùm thơ của Dương Huy

>> Miền Tây Nghệ An trước thế kỷ XV

>> Thơ Vân Anh: Vá nhọc nhằn, tằn tiện của Tiền Nhân

>> Nhà thơ Lê Quốc Hán: Cho ta nhặt lại cái ngày đầu tiên

 

ĐẶT TAY LÊN NGỰC TRỐNG ĐỒNG 

 

Đặt tay lên ngực trống đồng

Để nghe vọng tiếng Lạc Hồng nghìn năm

Dịu đi giọt mắt ướt đầm

Dịu đi giọt máu tím bầm Mỵ Châu

 

Dấu đường lông ngỗng còn đau

Bể dâu chìm nổi trắng phau kiếp người

Một trăm chiếc trống làng tôi

Năm mươi xuống bể năm mươi lên rừng

 

Tay nắm chặt mắt rưng rưng

Thề non hẹn biển đã từng từ đây

Nước non thủa ấy hao gầy

Cháu con vun đắp tròn đầy nơi nơi

 

Đêm dầu cạn ngày đèn vơi

Lệnh vua ban bố bề tôi một lòng

Non sông xã tắc hưng vong

Đặt tay lên ngực trống đồng lắng nghe

 

HÀ NỘI ĐÊM MỒNG 4 THÁNG MƯỜI 

    (Tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp) 

 

Hà Nội ơi! Tháng Mười

Lịch sử vẹn nguyên một thời chiến trận

Kiêu hãnh đoàn quân tiến về tiếp quản

Thủ Đô rạng rỡ mắt người

 

Sao bước bước chân ai đêm nay

Trên Đường Hoàng Diệu cũng chầm chậm dừng

Ngỡ ngàng nhìn vào ngôi nhà Đại Tướng

Lòng nén lòng những giọt mắt rưng rưng

 

Hà nội đêm nay và nhiều đêm sau không ngủ

Trong màu mây Tổ quốc sáng vô cùng

 

NHÂN DÂN 

 

Là rừng trúc là luỹ tre

Xanh non hương cốm lắng về hương sen

Là giọt bấc là ngọn đèn

Thanh bần thắp sáng nỗi niềm áo cơm

 

Là cay đắng là thảo thơm

Đồng xa bóng rạ bóng rơm bóng làng

Là nghèo khó là giàu sang

Chân bùn tay lấm huy hoàng vinh hoa

 

Là suối mẹ là núi cha

Là nguồn cội là ông bà tổ tiên

Là dâu thảo là rể hiền

Là con là cháu nối liền thế gian

 

Là mây trắng là khói lam

Lặn vào mưa nắng hoà tan trong ngần

Hiểm nguy khi Tổ quốc cần

Đồng lòng không tiếc muôn lần máu xương.

 

NHỮNG ÁNH MẮT BÊN DÒNG HIỀN LƯƠNG 

 

Hiền Lương không như chúng tôi tưởng tượng

Khi chưa được đặt chân đến nơi đây

Bạn tôi nói thế và tôi cũng nghĩ thế

Bởi câu hát “bên ven bờ Hiền Lương” cứ vời vợi đến vô cùng

 

Những ánh mắt treo dọc bờ Hiền Lương

Làm ngọn gió mong manh

Làm khoảng trời chông chênh

Làm dòng sông quặn thắt

 

Chúng tôi lặng im

Xe chúng tôi đang chạy trên cầu Hiền Lương

Những ý nghĩ cồn cào nhức buốt

 

Thốt nhiên tất cả chúng tôi đều nhìn về hướng nam

Nơi có người đàn bà và đứa con vời vợi nhìn ra hướng bắc

Lặng im như ngỡ thấy những ánh mắt

Nhứng ánh mắt dằng dặc nỗi chờ mong

Rơi xuống dòng sông như sương khói

Những ánh mắt nối hai bờ

Suốt mấy mươi năm cách xa.

 

CÁNH RỪNG VÀ NGỌN LỬA 

 

Võng dăng nỗi nhớ khắp miền

Tăng ru ngọn khói bình yên khoảng trời

Lửa gần lại những bóng người

Lửa đốt cháy những rối bời nhỏ nhen

 

Lửa hờn như ánh mắt em

Lừa soi tỏ những nỗi niềm rưng rưng

Bàn tay giá lạnh đêm rừng

Hơ cùng ngọn lửa bập bùng gian nan

 

Khuya sâu lụi bếp lửa tàn

Hơi than ấm với đại ngàn tìm nhau

Rịt lành đi vết thương đau

Mai cùng ngọn lửa rừng sâu tìm về

 

Đêm dồn tiếng muỗi vo ve

Bên ta võng bạn chừng nghe thở dồn

Giờ đây ai mất ai còn

Cánh rừng ngọn linh hồn gọi ta.

Tranh của họa sĩ Hữu Ước

BIỂN CHƯA BAO GIỜ LẶNG SÓNG 

 

Biển trầm tư

Lớp lớp nếp nhăn nói nhiều về sóng

Nếp nhăn trên trán người đàn ông

Những người đàn ông biển

 

Bão lặng

Làng chài không bình yên

Những người đàn bà già đi trước tuổi

Những đứa trẻ sớm lo âu trước tuổi

Sau trận bão đêm qua

Nỗi đau dạt về theo sóng

 

Biển chưa bap giờ lặng

Những nếp nhăn hằn trên mặt cát

Những ánh mắt trũng sâu thờ thẫn

Căng lên ngăn từng đợt thuỷ triều.

 

HAI MẶT ĐỒNG TIỀN 

 

Lật nghiêng hai mặt đồng tiền

Để nghe vật vã nỗi niềm nhân gian

Loé như một ánh hào quang

Tắt như một dấu chấm than giữa chừng

 

Sớm còn hoan hỉ vui mừng

Chiều đã ngoảnh mặt quay lưng não nề

Khi xa tiền gọi người về

Khi gần người bỏ bạn bè người đi

 

Khi hạnh phúc khi chia ly

Mỏng dày đâu chiếc phong bì biết thôi

Đỏ như máu trắng như vôi

Xanh như cỏ bạc như người tiền ơi

 

Lật nghiêng hai mặt đầy vơi

Bịt tai càng rõ tiếng rơi đồng tiền

Lật nghiêng hai mặt ưu phiền

Để ta lắng những nỗi niềm thế gian.

 

NGÀY GIÓ LÀO NHIỀU NHẤT 

 

Thành phố rung lên từng trận gió Lào

Nắng đúc gang bỏng rãy

Gió táp

Mặt người đen cháy

Vật vã hàng cây

Xập xệ những ngôi nhà

Thành Phố như một con tàu mắc cạn

 

Bên ta sông vẫn xanh

Biển vẫn xanh

Rừng thông vẫn xanh

Cột đèn đường đứng đó hình như vẫn xanh

Sao… mắt em ắp đầy nắng gió?

 

TIẾNG RAO ĐÊM 

 

Ai mua bánh mỳ nóng đây

Thương em một bóng thân gầy trong đêm

Nào ai mua bánh dùm em

Tiếng rao thắc thỏm héo mềm lòng tôi

 

Bánh mỳ ủ nóng người ơi

Thân em giá buốt giữa trời gió sương

Bóng em khuất nẻo cuối đường

Tiếng rao như hãy còn vương ngõ dài

 

Ai mua bánh mỳ nóng đây

Đêm khuya sương lạnh rắc đầy tiếng rao.

 

CHIỀU CHỚM ĐÔNG 

 

Bóng mây bắt bóng nắng

Chiều vừa cầm trên tay

Gió thổi vầng trăng mỏi

Cánh diều mãi miết bay

 

Lưng bò chở tiếng sáo

Khuất dần vào bờ cây

Chiều trốn sau lưng áo

Đồng tãi dần heo may

 

RU CÁT 

 (Viết tặng anh Đỗ Đức Địu thương binh 

bị chất độc da cam ở Quảng Bình) 

 

Người chơ vơ chiều chon von

Nắng cô bóng chiều cô hồn chênh chao

Một nấm cát một nỗi đau

Mười hai nấm cát tứa màu khói nhang

 

Cha đau dọc mẹ đau ngang

Mười hai thai nghén mẹ mang khuyết dày

Chiến tranh qua mấy ngàn ngày

Vết thương sao vẫn xới cày tim anh

 

Ước làm cha quá mong manh

Ước làm mẹ sao chỉ thành thai nhi

Mười hai sinh linh ra đi

Mười hai năm lẻ nòi gì mai sau

 

Mười hai bến nước dãi dầu

Mười hai lần trắng trên đầu khăn tang

Chết đi sống lại ngỡ ngàng

Mười hai nấm cát một hàng trắng phau

 

Anh nén đau chị nén đau

Lặng thinh ru cát dưới màu trời xanh.

 

TÔI VỀ THẦM GỌI TÊN LÀNG 

 

Tôi về thầm gọi tên làng

Hoà trong câu hát cũ càng người ơi

Nhà cao chóp nhọn chọc trời

Tên làng lắng lại trong lời ầu ơ

 

Tôi về gom những ấu thơ

Lặng bên cánh võng mẹ xưa ru mình

Đèn xanh đèn đỏ xập xình

Tường cao ngăn cách nghĩa tình ngõ quê

 

Làng xưa vẫn gọi tôi về

Thấm cùng mưa nắng bộn bề áo cơm

Buộc vào sợi nắng cọng rơm

Nghe trong hương gió thảo thơm mùa màng.

 

NGUYỄN TRƯỜNG THỌ 

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *