Tấm gương học ngoại ngữ của Bác Hồ

Vanvn- Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về ý chí học tập, vươn lên không mệt mỏi. Đây là một trong những yếu tố giúp Người trở thành một trong những lãnh tụ vĩ đại trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, trải qua bao khó khăn, gian khổ, ý chí đó càng được tôi luyện và sáng ngời.

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu

Khi mới học hết lớp Nhì bậc tiểu học (năm học 1908 – 1909, Người học lớp Nhì trường Quốc học Huế), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi, bắt đầu chuyến hành trình tìm đường đưa dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến. Chuyến hành trình này đưa Người đến nhiều nước trên thế giới, mang lại cho Người hiểu biết về các nền văn hoá trên thế giới cũng như cơ hội được chứng kiến nhiều cảnh đời khác nhau của các tầng lớp trong xã hội để từ đó Người có những nhận thức đúng đắn nhất để xác định được con đường đến với chân lý. Trong quá trình hoạt động cách mạng gian khổ đó, một phương tiện vô cùng quan trọng và cần thiết mà Người luôn trau dồi và luôn giúp ích hỗ trợ cho Người trong giao tiếp và hoạt động chính trị đó chính là vốn ngoại ngữ của nhiều nước khác nhau nơi Người đã từng sống và hoạt động. Có thể nói, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, cho đến hiện nay ít người có thể sử dụng nhiều ngoại ngữ như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo lời khai của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7, Người có thể nói được 6 thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga. Tuy nhiên trên thực tế, Người còn có thể sử dụng các ngoại ngữ khác như tiếng Thái, tiếng Tây Ban Nha, Tiệp Khắc, Ả Rập… Để có được khả năng sử dụng nhiều ngôn ngữ như vậy, ngoài trí thông minh xuất chúng còn cần phải có một ý chí rèn luyện không mệt mỏi và một quyết tâm thực hiện cho được mục đích mà Người đã xác định rõ ràng từ trước.

Rời Tổ quốc ra đi với hai bàn tay trắng cùng vốn tiếng Pháp ít ỏi học được từ trong nhà trường, Bác đã làm nhiều công việc cực nhọc để có tiền nuôi sống bản thân. Nhưng điều kiện sống khó khăn không làm giảm đi khát khao tìm tòi, học hỏi của một người Việt Nam yêu nước. Nhận thức được tầm quan trọng của ngoại ngữ trong giao tiếp và hoạt động cách mạng, mỗi ngày Người đều dành thời gian để tự học thêm tiếng Pháp. Người học từ trong công việc hằng ngày, từ những người đồng nghiệp xung quanh mình. Phương pháp học của Bác cũng rất đơn giản và hiệu quả: Muốn biết một vật nào đó tiếng Pháp gọi là gì, Bác chỉ vật ấy rồi hỏi, xong viết vào mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý nhất để vừa làm việc vừa học được. Có khi viết chữ vào cánh tay, tối đi làm về Bác rửa tay rồi lại viết các chữ khác. Học được chữ nào Bác ghép câu dùng ngay. Khi vốn từ vựng đã được bổ sung đáng kể, Bác bắt đầu học viết báo với sự giúp đỡ của đồng chí Giăng Lông-ghê là chủ nhiệm báo “Người bình dân” (Le Populaire) – cơ quan của Đảng Xã hội Pháp. Từ những mẩu tin ngắn, Bác tập viết những bài dài cả cột báo hoặc dài hơn. Dần dần Người đã viết được truyện ngắn và cả những vở kịch bằng tiếng Pháp. Sau này Người còn làm chủ bút, chủ nhiệm của tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria). Có thể kể ra đây một số bài báo, tác phẩm tiêu biểu Bác đã viết bằng tiếng Pháp trong giai đoạn này như: “Bản án chế độ thực dân Pháp”; “Vấn đề bản xứ”; “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”; “Vi hành”… hay những vở kịch với lối viết châm biếm, sâu cay với tác phẩm tiêu biểu là “Con Rồng tre” và đặc biệt là bản “Yêu sách của người dân An Nam”. Bản yêu sách với lời văn ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, nội dung thẳng thắn, rõ ràng được Người gửi đến Hội nghị Vécxay năm 1919 để đòi hỏi các quyền cơ bản cho người dân nước mình đã gây một tiếng vang trong nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa Pháp. Nhờ thông thạo tiếng Pháp Người tiếp cận được với bản “Sơ thảo lần thứ nhất những vấn đề về dân tộc và thuộc địa” của Lênin qua tờ báo “Nhân đạo” (L’ Humanité) tháng 7 năm 1920, từ đó tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng cho dân tộc mình, đồng bào mình. Khả năng sử dụng tiếng Pháp đã hỗ trợ đắc lực cho Người trong quá trình đấu tranh đòi các quyền bình đẳng cho dân tộc mình cũng như những người dân bị áp bức bóc lột trên thế giới và khuyến khích Người tham gia hoạt động cách mạng tích cực và hăng hái hơn. Người đã tận dụng được ngôn ngữ của chính quốc gia đang áp bức, bóc lột dân tộc mình thành một phương tiện đắc lực để đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng cho đồng bào mình.

Ngoài khả năng tiếng Pháp rất thông thạo, qua quá trình hoạt động cách mạng sôi nổi của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tự trau dồi nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau, trong đó có tiếng Anh. Bác đã đến và sống tại nước Anh trong một thời gian khá dài (khoảng 4 năm: từ 1913-1917) với một trong số các mục đích được xác định rõ ràng ngay từ đầu là học tiếng Anh. Tại đây, để có tiền trang trải cuộc sống và học tập, Bác đã làm rất nhiều nghề cực nhọc như: quét tuyết, đốt lò, làm phụ bếp cho khách sạn Các-lơ-tơn. Mỗi ngày Người phải làm việc từ 9 đến 10 tiếng đồng hồ trong điều kiện ăn mặc thiếu thốn nhưng Người vẫn dành một khoản tiền ít ỏi kiếm được để đi học tiếng Anh vào ngày nghỉ hằng tuần. Nhờ quá trình học tập kiên trì Người đã có thể sử dụng tiếng Anh khá thành thục và từ đó Người bắt đầu tiếp cận những tác phẩm văn học nổi tiếng viết bằng tiếng Anh, nghiên cứu lịch sử thế giới và suy nghĩ về tương lai của các dân tộc thuộc địa. Qua nhiều tư liệu cho thấy Bác nói giỏi tiếng Anh, thông thạo văn hoá và lịch sử Anh, Mỹ. Bác đã dịch nhiều đoạn, nhiều câu rút trong báo chí Anh, Mỹ và các nước khác để đưa vào tiểu phẩm của mình.

Đặt chân lên đất nước Liên Xô năm 1923, Bác bắt đầu ngay việc học tiếng Nga. Trải qua bao nhiêu hiểm nguy, gian lao, trong một thời gian ngắn, Bác đã nghe và nói được một số câu thường dùng trong đời sống hàng ngày. Ý chí quyết tâm đó đã làm cho các đồng chí của Bác phải ngạc nhiên. Với tinh thần ham học hỏi mà trong khoảng 5 năm ở Liên Xô, Bác có thể nắm được khá thành thạo tiếng Nga, thứ tiếng mà nói chung không gần gũi nhiều với tiếng Việt. Bằng vốn tiếng Nga tự học và tự tích luỹ được, Bác tham gia hoạt động trong Hội đồng Quốc tế Nông dân và vào học trường Đại học Phương Đông trực thuộc Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Sau này Người tham gia lớp nghiên cứu sinh Ban Sử học của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, và Bác cũng đồng thời nhận phiên dịch tài liệu từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Cũng trong thời gian sống và hoạt động trên đất nước Lênin, Bác viết rất nhiều bài cho một số tờ báo như “Đời sống công nhân Ba-kin-xki”, “Tiếng còi”, “Tạp chí đỏ”, “Thời mới”, “Sự thật”… Người đã đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người, nhiều tầng lớp trên đất nước rộng lớn nhất thế giới này vì thế mà khả năng sử dụng tiếng Nga của Người ngày càng thuần thục. Một đồng chí của Bác ở Moskva từng nhận xét: “Từ trước đến nay, những người nổi tiếng trên thế giới đến Liên Xô mà nói được tiếng Nga có đồng chí Mo-rít Tô-rê (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp), nhà nghệ sĩ da đen người Mỹ Pôn Rốp-sơn và nay có đồng chí Hồ Chí Minh nữa là người thứ ba”(1).

Cuối năm 1924, Bác sang Trung Quốc hoạt động. Vốn Hán học được học hành từ thuở nhỏ cùng nhiều năm sống và hoạt động cách mạng ở Trung Quốc giúp Người rèn giũa, bồi đắp và hoàn chỉnh đến độ uyên bác. Người có thể nói được tiếng Trung Quốc phổ thông, lại có thể nói được các phương ngữ, thổ âm của họ như tiếng Quảng Đông, Quảng Châu, Thượng Hải, Vân Nam… Người viết báo, viết văn, làm thơ bằng vốn Hán học mà tập Nhật ký trong tù là một minh chứng tiêu biểu. Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc Quách Mạc Nhược từng nhận xét về tập thơ này như sau: “Có một số bài rất hay, nếu xếp chung vào một số bài thơ Đường, Tống e cũng không dễ gì nhận ra”. Nhận xét đó cho thấy trình độ Hán học cũng như thi tài của Bác đã đạt đến mức độ uyên thâm như thế nào. Khi trở về Tổ quốc hoạt động, Bác đã dịch, biên dịch hoặc biên soạn được nhiều tài liệu tiếng Trung nhằm phục vụ kịp thời cho cách mạng như: “Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô”, “Phép dùng binh của Tôn Tử”,… Người sử dụng tiếng Hán như một công cụ lợi hại, với kẻ thù là một vũ khí sắc bén nên lắm khi ứng đối với kẻ địch Bác làm chúng bối rối, với bạn bè, anh em thì đó lại là một chiếc cầu nối hữu nghị để tăng cường hiểu biết, cảm thông nhau hơn. Có thể khẳng định, nhờ vốn Hán ngữ, Người đã xây dựng được một mối quan hệ gắn bó thân thiết, bền chặt giữa nhân dân Trung Quốc và Việt Nam.

Ngoài các thứ tiếng kể trên, Bác Hồ còn học nhiều thứ tiếng của các dân tộc khác trong suốt hành trình đi tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng. Năm 1923, trên đường đi công tác, tuy chỉ ghé qua thủ đô Béclin trong một thời gian ngắn nhưng Bác vẫn tranh thủ học tiếng Đức. Lúc học, Bác mua báo Đức để tập đọc. Vì hồi đó nước Đức đang bị nạn đói nghiêm trọng và lạm phát tồi tệ nên Bác nói: “Tiền mua một tờ báo lúc đó trải rộng ra bằng cả tờ báo”. Nhờ kinh nghiệm từng học qua nhiều ngoại ngữ nên Bác học tiếng Đức khá nhanh và phản xạ khá nhạy bén. Trong thời gian ngắn ngủi ở Đức, Người đã hoàn thành xong phần cơ bản của tiếng Đức. Khi có điều kiện thăm lại nước Đức gần 40 năm sau đó, Bác vẫn có thể nói chuyện với các bạn Đức thành thạo và điều này đã làm cho họ vô cùng ngạc nhiên và thích thú. Hành trình đi tìm đường cứu nước còn đưa Người đi qua các nước Tây Ban Nha, Ý, Thái Lan, Tiệp Khắc và một số nước khác, đến đâu Bác cũng tranh thủ học một ít tiếng nước đó để tiện chủ động trong giao tiếp và công việc. Nhờ đức tính ham học hỏi đó mà vốn ngoại ngữ của Bác ngày càng được phong phú. Rất nhiều nhà báo nước ngoài với những quốc tịch khác nhau đã thích thú đến ngỡ ngàng khi Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể nói với họ bằng chính ngôn ngữ nước họ. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Người về lại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức một buổi chiêu đãi các vị khách quốc tế. Khách tham dự là người Nga, người Trung Quốc, người Pháp, người Anh và người Mỹ… Lúc đó ta chỉ có phiên dịch tiếng Pháp là chủ yếu. Biết làm sao trước tình huống đó. Và thật bất ngờ, Bác ra hiệu cho đồng chí phiên dịch không phải dịch nữa rồi Người “ngồi nghe đồng chí phóng viên báo “Sự thật” (Liên Xô) nói chuyện. Đôi khi Bác trả lời lại bằng tiếng Nga. Thỉnh thoảng Người còn nói chuyện bằng tiếng Ý với phóng viên tạp chí “Đoàn kết” (Unita), cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Ý; bằng tiếng Anh với phóng viên báo “Công nhân”, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Mỹ. Tất cả mọi người có mặt hôm ấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên, khâm phục. Dường như đoán được điều đó, Bác mỉm cười nói bằng tiếng Pháp… (2).

Với cương vị Chủ tịch nước bận trăm công nghìn việc, nhất là những năm chống Pháp, chống Mỹ gian khổ, Người vẫn nghe đài, đọc báo của nước ngoài để nắm vững tình hình, cùng bộ tham mưu của mình vạch chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn và sáng suốt. Theo nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, người từng là phiên dịch viên cho các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước thì vị Chủ tịch của nước Việt Nam cho đến khi ngoài 70 tuổi vẫn còn chăm học ngoại ngữ. Bác học mọi nơi, mọi lúc có thể. Nguyên Phó thủ tướng hồi tưởng: “Có lần Bác nói mình vốn biết tiếng Nga nhưng do lâu năm không sử dụng nên vốn từ vựng bị rơi rụng, thành ra giờ phải học lại. Bác để một mảnh giấy trong hộp thuốc, trên mảnh giấy ghi 10 từ tiếng Nga. Cứ mỗi lần mở hộp thuốc lấy một điếu là Bác lại nhẩm đọc từ mới. Mỗi ngày 10 từ, cho là rơi rụng đi thì mỗi ngày cũng học được 5 – 7 từ…”. “Cả đời tôi gặp biết bao nhiêu người nhưng chưa thấy ai chăm học ngoại ngữ như Bác Hồ cả”, nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan thán phục.

Cũng theo nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan, Bác Hồ rất giỏi tiếng Anh: “Có lần lên dịch ở Phủ Chủ tịch, nghe Bác nói tiếng Anh với khách mà tôi thấy sợ, Bác nói giỏi quá. Sau tôi có đọc lại những lá thư Bác Hồ viết cho Quốc tế cộng sản bằng tiếng Anh, viết rất chuẩn. Thế ra tiếng Anh của Bác rất giỏi chứ không như người ta nghĩ Bác chỉ giỏi tiếng Pháp đâu”.

Về tiếng Trung Quốc, nguyên Phó thủ tướng cho biết Bác Hồ nói tiếng Trung Quốc giọng Quảng Đông chứ không phải giọng Bắc Kinh nhưng vốn chữ Hán của Bác lại rất thâm hậu. Có lần Thủ tướng Chu Ân Lai sang Việt Nam, ông phiên dịch trông thấy Bác và Chu Ân Lai nói chuyện trực tiếp thì “ngất luôn” vì sợ. “Có lần đến sứ quán Liên Xô, trông thấy Bác, ông phiên dịch cứng lưỡi, không dịch được. Đời tôi thấy 2 người rồi, một ông Nga, một ông Trung Quốc, trông thấy Bác Hồ là “xỉu”, không dịch được”, nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan chia sẻ.

Khả năng học ngoại ngữ của Bác không phải là do thiên bẩm mà là kết quả của một quá trình khổ luyện với một ý chí quyết tâm không mệt mỏi. Bác đặt ra cho mình một mục tiêu rõ ràng khi học ngoại ngữ: Học là để giao tiếp, để tăng cường hiểu biết, để hoạt động cách mạng, để giúp ích cho dân tộc mình, cho đồng bào mình và mục tiêu này cũng là một động lực to lớn giúp Người học thành công. Bác học Ngoại ngữ và sử dụng ngoại ngữ một cách có hiệu quả: Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, ngôn ngữ của các nước khác nhau đã giúp Người học hỏi được nền văn hoá của nước đó, hoà mình vào đời sống công nhân và phong trào cách mạng của họ, liên kết các phong trào công nhân lại thành một mặt trận thống nhất nhằm tạo một sức mạnh đoàn kết chống lại kẻ thù chung là các nước đế quốc, thực dân. Khi cách mạng thành công, ngoại ngữ góp phần đắc lực giúp Người xây dựng và mở rộng các mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, tăng cường sự giúp đỡ, ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Là người thông thạo nhiều thứ tiếng trên thế giới như vậy nhưng Bác luôn có ý thức trân trọng, giữ gìn tiếng nói của dân tộc mình bởi theo Bác ngôn ngữ là một phần văn hoá, bản sắc của dân tộc. Trong Đại hội lần thứ ba Hội nhà báo Việt Nam ngày 8.9.1962, Người căn dặn: ”“Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quí báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quí trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ủng hộ việc tiếp thu một số từ ngữ từ tiếng nước ngoài mà tiếng Việt không có để làm giàu cho vốn ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, Người phê phán hiện tượng lạm dụng tiếng nước ngoài, sính dùng từ nước ngoài để “khoe chữ” trong khi những từ đó đã có trong tiếng Việt. Bản thân Người khi nói và viết bao giờ cũng cố gắng sử dụng những từ ngữ tiếng Việt sẵn có thay vì dùng các từ ngữ có nguồn gốc từ nước ngoài, hoặc Việt hoá nhiều từ ngữ nước ngoài. Người thường xuyên vận dụng tục ngữ, thành ngữ, ca dao, Truyện Kiều vào những bài nói, bài viết của mình, tạo nên sự gần gũi, giản dị mà cũng hàm chứa được những điều hết sức sâu xa. Và trong suốt cuộc đời mình, Người tỉ mỉ uốn nắn cách nói, cách viết của đồng chí, đồng bào nhằm giữ gìn sự trong sáng, chuẩn mực của tiếng Việt.

Trong thời kỳ hội nhập sâu rộng như ngày nay, khả năng sử dụng thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ là một yêu cầu gần như là bắt buộc đối với mỗi người, nhất là đối với tầng lớp thanh niên, học sinh, cán bộ, công chức, người lao động, bởi chúng ta sẽ không thể nào hội nhập được nếu không tự trang bị cho mình một phương tiện để giao tiếp với thế giới đó là ngôn ngữ. Với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện thông tin truyền thông hiện đại, ngày nay chúng ta có đầy đủ các điều kiện để học ngoại ngữ tốt, tuy nhiên đối với một số người thì việc học ngoại ngữ vẫn được xem là một việc khó khăn và họ thường đổ lỗi là do mình không có đủ “năng khiếu” để nguỵ biện cho sự thiếu quyết tâm, tính kiên nhẫn và một phương pháp học đúng đắn. Tấm gương học ngoại ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nghị lực không mệt mỏi, tinh thần chủ động và phương pháp học hiệu quả là những điều chúng ta cần noi theo. Nếu như trước đây mong muốn tìm ra con đường cứu nước, cứu dân là động lực to lớn thôi thúc Bác vượt qua muôn ngàn trở ngại để học ngoại ngữ thành công thì thời đại ngày nay chúng ta biến động lực này thành quyết tâm học ngoại ngữ để phát triển đất nước, hội nhập với thế giới, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Đây cũng chính là một hành động tích cực ủng hộ cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và thiết thực góp phần thực hiện những điều mà Bác Hồ suốt cuộc đời hằng mong muốn.

ThS. LÊ THỊ THANH LOAN

Chú thích:

(1) Kể chuyện Bác Hồ, tập 2, Nxb. Giáo dục

(2) Kể chuyện Bác Hồ, tập 2, Nxb. Giáo dục

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *