Sự biến ảo của lục bát Mai Bá Ấn – trường hợp câu lục

Vanvn- Có th thy, vic ngt/ vt dòng câu lục trong thơ Mai Bá Ấn hết sc linh hoạt và đa dạng. Nếu như lục bát truyn thống thường ngt nhp chn 2/2/2 quen thuc thì lc bát Mai Bá n gần như ngắt nhp mi v trí. 

Nhà phê bình Mai Bá Ấn ở Quảng Ngãi

Cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng trong bài viết “Mai Bá n và trn tri một khúc đành hanh” có một nhận định rất tinh tế, xác đáng về lục bát Mai Bá Ấn: “Những câu thơ dường như không chịu ăn mặc chỉnh tề, cứ như vậy mà tưng tửng đi vào đời”. Với hai tập Lc bát làm liu Thị trường lc bát, Mai Bá Ấn đã góp vào dòng chảy của lục bát Việt một gương mặt độc đáo, bằng những câu thơ ấn tượng. Đó là những câu thơ “tưng tửng”, “không chịu ăn mặc chỉnh tề” đầy bất ngờ mà cũng hết sức thú vị, sâu sắc. Một trong những điều làm nên những câu thơ trên chính là câu lục biến thể mà nhà thơ phá cách chủ động, linh hoạt. Làm nên sự biến ảo của lục bát Mai Bá Ấn có vai trò tiên phong của những câu lục này.

1. Câu lc ngt/ vt dòng

Không khó để nhận ra câu lục ngắt/ vắt dòng xuất hiện với tần số cao trong thế giới lục bát Mai Bá Ấn. Trong Lc bát làm liu Thị trường lc bát, kiểu câu lục biến thể này có mặt trong gần như tất cả các bài. Dưới đây là một số mô hình ngắt/ vắt dòng mà nhà thơ thường xuyên sử dụng:

Ngt dòng theo nhp ch

– Ngắt dòng 2/4, chẳng hạn: Ru con/ Ba hát ging bun; Li ru/ câu ni tiếng chìm (Nhà thơ ru con); Câu lc/ chèn gia cõi trn (Trẻ được…là mừng)…

– Ngắt dòng 4/2, chẳng hạn: May mà còn M/ và Em (Nợ); đây là cổ phiếu/ không tên (Chứng khoán tình yêu)…

– Ngắt dòng 2/2/2, chẳng hạn: thôi thì/ mt chán/ hai chê (Dế giun Bùi Giáng); gái quê/ thương thiệt/ yêu thà (Gái tiếp viên)…

Ngt dòng theo nhp l

– Ngắt dòng 1/5, chẳng hạn: khóc/ cho ra mt tiếng cười (Đi lên Đà Lạt tìm hoa); trăng/ hoang thai gia mây tri (Hoang thai)…

– Ngắt dòng 1/3/2, chẳng hạn: Rót/ trong bình nht/ git mòn (Về)…

– Ngắt dòng 2/1/3, chẳng hạn: có ln…/ vâng/ đã có ln (Dế giun Bùi Giáng); hoàng hôn/ lnh/ ni tái tê (Điên rồ trinh tiết biển)…

– Ngắt dòng 3/1/2, chẳng hạn: mà thì là/ gin/ lng im (Mà… thì… là)…

– Ngắt dòng 1/1/1/1/2, chẳng hạn: rng/ em/ sp/ sa/ ly chng (Anh đau cái chỗ…)…

– Ngắt dòng 3/3, chẳng hạn: Mười lăm năm…/ li tr v (Mười lăm năm… nặng nợ yêu thương); Và hình như…/ hình như là (Vòng tròn)…

Vt dòng sang câu bát

Đó là trường hợp câu lục chưa trọn vẹn nghĩa. Nhà thơ cố tình vắt dòng câu lục sang câu bát để câu thơ thể hiện trọn vẹn một logic ngữ nghĩa. Chẳng hạn: Ru t viên phấn ngày đầu/ vào ngh…/ cha hát nhng câu nhân tình (Thầy giáo ru con)…

Có thể thấy, việc ngắt/ vắt dòng câu lục trong thơ Mai Bá Ấn hết sức linh hoạt và đa dạng. Nếu như lục bát truyền thống thường ngắt nhịp chẵn 2/2/2 quen thuộc thì lục bát Mai Bá Ấn gần như ngắt nhịp ở mọi vị trí. Sự tự do trong ngắt nhịp/ vắt dòng không chỉ mang đến những tiết tấu, nhịp thơ đa dạng, sinh động, phù hợp với mạch/ dòng cảm xúc mà còn là sự chứng thực cho tính chất “trò chơi” của lý thuyết tiếp nhận hiện đại trong thơ Mai Bá Ấn, như chính nhà thơ quan niệm: lục bát hay thơ nói chung có thể “làm liều”, “làm đại”, rộng hơn là “làm chơi”, “liều chơi”, “đùa chơi”: Câu thơ lục bát đoạn trường/ liu thôi (Liều); Đem câu lục bát yêu thương/ lia vào giữa cuộc thương trường/ liều chơi (Ngỏ)...

2. Câu lc vi phm lut bng trc

Ai cũng biết, trong câu lục của lục bát nguyên thể, tiếng thứ tư bắt buộc phải mang thanh trắc (một trong bốn thanh điệu sắc, hỏi, ngã hoặc nặng). Trong thế giới lục bát Mai Bá Ấn, câu lục được giữ nguyên thể quen thuộc vẫn xuất hiện thường xuyên nhưng cũng không kém phần độc đáo, ấn tượng; ví như: Con đò đng sựng bên sông/ khi nghe sáo đã s lng bay xa (Gánh duyên qua cầu); ta v gõ nt nhp tim/ kiếm tin nhun bút nuôi em sang giàu (Đùa chơi)…

Bên cạnh câu lục nguyên thể, nhà thơ Mai Bá Ấn còn tăng cường sử dụng câu lục phá cách theo hình thức vi phạm luật bằng trắc. Cụ thể, ở nhiều bài thơ, tác giả cố tình để tiếng thứ tư của câu lục mang thanh bằng (thanh ngang hoặc thanh huyền), chẳng hạn: Li ri mt mùa Noel (Về đây cùng hát); đây là thị trường t do (Thị trường lục bát). Với tiếng thứ 4 mang thanh bằng, câu lục ngay lập tức gây hiệu ứng… “chỏi”. Nó bị tước đi giai điệu êm ả quen thuộc, tạo phản ứng “trái tai”, khiến người đọc bắt buộc phải chú ý đến. Nghĩa của câu thơ cũng tạo sinh từ đó…

Ở nhiều câu lục khác, bên cạnh tiếng 4 vần bằng, tác giả còn gia tăng số lượng vần bằng ở những tiếng khác nhằm tạo những hiệu ứng âm thanh lạ. Trong thơ Mai Bá Ấn, không khó để gặp những câu lục có 5/6 tiếng mang thanh bằng, chẳng hạn: M là dòng sông quê hương (Nợ); Vy ri mình ngi mình bun (Lục bát đùa chơi); Chúa trên tri mà chi (Về đây cùng hát); Đi qua cui cây cu tre (Bão tự phương anh)…

Thậm chí, ở nhiều bài, nhà thơ còn cố tình viết những câu lục toàn bằng, tức 6/6 tiếng đều mang thanh bằng, ví như: câu bay theo mây lang thang (Xangsane lục bát bão lòng); hoa/ hoang thai trên cành cao (Hoang thai)…

Chưa dừng lại ở đó, Mai Bá Ấn còn phá cách câu lục bằng cách ngắt dòng câu lục toàn bằng, chẳng hạn: Va là thy/ va là cha (Thầy giáo ru con); tình bun/ tìm về/ đường mòn; bun tình/ mình ngi/ ru ru; ln mò/ hn tìm/ v đng (Xangsane lục bát bão lòng)…

Bên cạnh tiếng thứ tư, tiếng thứ 2 của câu lục Mai Bá Ấn cũng thường cố tình phá cách. Ở nguyên thể, tiếng thứ 2 câu lục bắt buộc phải mang thanh bằng. Nhà thơ cố ý sử dụng thanh trắc, chẳng hạn: mang rượu xin cưới ch Hng (Dế giun Bùi Giáng); Đà Lt thì lm th hoa (Mù sương Đà Lạt)…

Cùng với đó, nhà thơ kết hợp với ngắt dòng để tạo nên những câu thơ lục chông chênh, trúc trắc, tạo những hiệu quả thẩm mỹ bất ngờ, ví như: Con gái Đà Lạt/ má hng (Mù sương Đà Lạt); câu lc/ ngm ti nut hn; không khóc/ sao mt cay cay (Thị trường lục bát)…

Thậm chí, ở nhiều câu lục, nhà thơ cố tình vi phạm luật ở cả hai tiếng thứ 2 và tiếng thứ 4 kết hợp xuống dòng, ví như: câu bát/ ngân lên mê say (Xangsane lục bát bão lòng); tóc biếc xanh/ da trng ngn/ đợi người tàn cuc phù vân/ tr v (Điên rồ trinh tiết biển)…

Dĩ nhiên, Mai Bá Ấn không phải là người đầu tiên phá cách câu lục bằng hình thức vi phạm luật hòa thanh. Tuy nhiên, phá cách một cách linh hoạt, “liều” nhưng hợp lý, thuyết phục và đem đến những ấn tượng độc đáo, bất ngờ như ông thì không phải tác giả lục bát nào cũng làm được. Đúng như nhà thơ Thanh Thảo nhận định: “Mai Bá Ấn là người làm thơ lục bát rất có duyên”. Cái duyên ấy đến từ sự giản dị, tự nhiên nhưng hết sức linh động, biến ảo của thế giới lục bát Mai Bá Ấn mà trong đó, câu lục phá cách có vai trò hết sức quan trọng.

3. Nhng kiu phá cách đc đáo khác

Câu lục vần trắc cũng là một biến thể mang dấu ấn Mai Bá Ấn. Trong lục bát nguyên thể, vần câu lục được gieo ở tiếng thứ 6 và mang thanh bằng. Hiếm hoi lắm mới xuất hiện vần trắc, ví như: Tò vò mà nuôi con nhn/ Đến khi nó ln nó quyn nhau đi (Ca dao). Chính Mai Bá Ấn trong một nghiên cứu công phu về “Thế giới lục bát biến thể của Bùi Giáng” cũng khẳng định: “Nói đến vần trong Lục bát, nhất định phải nghĩ đến vần bằng. Tuy nhiên, thi thoảng trong ca dao và ở một số nhà thơ có ý thức cách tân Lục bát khác vẫn có xuất hiện cách gieo vần trắc, nhưng rất hiếm”. Mai Bá Ấn là một trong số những nhà thơ “rất hiếm” ấy. Không dừng lại ở lý luận, nhà thơ tiến đến thể nghiệm một cách có ý thức câu lục vần trắc và thành công với những dòng thơ rất ấn tượng, chẳng hạn: Hương giang hoa tan bèo hp/ Mưa rơi lộp đp thủng nón bài thơ (Lục bát trắc vận)…

Câu lục giữ vai trò kết thúc bài thơ cũng là một kiểu phá cách độc đáo của lục bát Mai Bá Ấn. Ở lục bát nguyên thể, mỗi bài thơ là một hay nhiều liên lục bát (một liên gồm một câu lục và một câu bát đi liền nhau). Trong đó, câu bát giữ vai trò kết thúc liên, đồng thời kết thúc bài. Trong lục bát Mai Bá Ấn, nhà thơ thường xuyên làm ngược quy định thể loại khi để cho câu lục làm nhân tố kết bài, ví như: kết thúc bài “Phận Kiều” là câu lục thy chung nht mc nàng Kiu; kết thúc bài “Trẻ được… là mừng”, câu kết là câu lục xuống dòng tr ra được/ vy là mng…; kết thúc bài “Về” là câu lục Ngân nga ging c li cây…; kết thúc bài “Lời mẹ ru” là câu lục Li ru gn đục khơi trong…; ở bài “Thị trường ơi lắm đoạn trường” là câu lục rớt dòng thị trường ơi/ lắm đoạn trường… Đặc biệt ở chỗ, phần lớn những câu lục này lại đi kèm với dấu chấm lửng (dấu ba chấm) kết thúc bài.  Với điều này, ý thơ dường như vẫn chưa dứt, bài thơ vẫn còn ở trạng thái dang dở, “chưa làm xong”, “không hồi kết”; do đó có thể mở ra nhiều chân trời mới, “vẫy gọi người đọc” cùng “đồng sáng tạo”.

Có thể nói, một trong phương diện làm nên phong cách lục bát Mai Bá Ấn là sự phá cách trong việc sử dụng câu lục. Nhà thơ Thanh Thảo trong bài viết “Năm anh em trên một chiếc xe” giới thiệu năm gương mặt thơ độc đáo, trong đó có Mai Bá Ấn “hát lục bát hồn nhiên nhưng cách hát và bài hát đã khác”. Cả năm gương mặt thơ này đều có “cách “vào thơ” và “ra thơ” cũng đột ngột”. Một trong những cách “vào thơ” “đột ngột” nhưng độc đáo, ấn tượng và đầy cá tính của Mai Bá Ấn chính là câu lục phá cách mà ông đã sử dụng rất hiệu quả trong thế giới lục bát của mình.

Quê m Nghĩa K, cui năm 2021

TRỊNH BÍCH THÙY

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *