Vanvn- Cầm trong tay bộ sách(*), tôi thật sự ngỡ ngàng và có phần thán phục trước sự lao động nghệ thuật vừa nghiêm túc vừa dày công của nhà văn Lê Văn Ba, người đã từng trải qua lao tù của thực dân Pháp ở Hỏa Lò, Hà Nội (1952-1953) và nay đã bước sang tuổi bát tuần, mà vẫn làm được điều tưởng chừng như quá khó đối với không ít người và ngay cả với bản thân ông.

Trước đấy, năm 2010, nhà văn Lê Văn Ba đã cho ra mắt bạn đọc cuốn: “Chiến sĩ cách mạng- nhà văn Việt Nam trong nhà tù thực dân, đế quốc”, dày 550 trang, khổ 14 x 27cm, do Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin ấn hành. Nhưng có lẽ như vậy đối với ông vẫn là chưa đủ vì những lí do khách quan và chủ quan khác nhau chi phối, nên 5 năm sau, 2015, Lê Văn Ba lại cho ra mắt cuốn: “Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược”. Cuốn sách dày tới gần 1.500 trang bao gồm gần 170 tác giả là các chiến sĩ cách mạng, nhà yêu nước và nhà văn, nhà thơ đã từng ít nhất một lần bị quân xâm lược bắt giam trong các nhà tù khắp từ Bắc chí Nam, thậm chí là cả ở nước ngoài. Có người bị kẻ thù xâm lược giết hại ngay trong nhà tù, có người may mắn được sống sót hoặc trả tự do, nhưng cũng mang trong mình nhiều thương tích do đòn thù tra tấn quá dã man và khốc liệt. Nhưng tất cả họ đều có những điểm chung là tinh thần bất khuất, kiên cường đấu tranh vì nền hòa bình, tự do và độc lập cho non sông, giống nòi. Và họ đều là những người có một tâm hồn nhạy cảm với vận nước và những cơn ba đào của lịch sử dân tộc, cũng như những đổi thay của đất trời, lòng người.
Đó là Đặng Dung, trước lúc hy sinh còn để lại áng thơ Cảm hoài hào sảng và trở thành bất hủ ngay từ thời cuối triều Trần:
“Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày”.
Rồi đến Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Biểu, Lê Cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Giang Văn Minh, Lê Quýnh thuộc các triều đại phong kiến khác nhau đều đã từng bị tù đầy.
Nhưng có lẽ đông đảo nhất vẫn là các chiến sĩ cách mạng- văn nhân thời kỳ chống thực dân Pháp và phát xít Nhật gồm 137 tác giả. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thời kỳ bị Tưởng Giới Thạch bắt giam và kết án tử hình rồi giải đi hết chỗ này đến chỗ nọ mà vẫn một mực kiên trung với con đường mà mình đã chọn, vẫn tin tưởng ở thắng lợi ngay mai của cách mạng qua những vần thơ thật sự bay bổng:
“Phương đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối, đêm tàn, quét sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng”
(“Giải đi sớm”– Nhật ký trong tù, bản dịch của Nam Trân).
Trần Mai Ninh bị khoét mắt dẫn đi trên đường phố Tuy Hòa vẫn còn viết nên bài thơ “Nhớ máu” bất hủ:
“Các anh hùng tay hạ súng trường
Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu!”
Nhà thơ Tố Hữu giữa những ngày tuyệt thực ở nhà tù Lao Bảo, Quảng Trị mà nghĩ về cái chết nhẹ như lông hồng:
“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng”.
(Trăng trối)
Và còn hàng trăm chiến sĩ cách mạng, nhà văn khi bị thực dân Pháp và phát xít Nhật bắt tù đầy như Sóng Hồng, Lê Đức Thọ, Hải Triều, Trần Huy Liệu, Nguyễn Đình Thi, Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Tô Hoài,… vẫn giữ vững chí kiên trung, vẫn viết lên những áng thơ văn đầy khí phách với một tinh thần lạc quan cách mạng.

Điểm chung giữa người chiến sĩ cách mạng và nhà văn là dù phải sống trong cảnh tù đầy, dưới đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, họ vẫn luôn ngẩng cao đầu, quyết không chịu ô nhục, cảnh nước mất, nhà tan và đem thân đi làm nô lệ cho ngoại bang. Mở đầu tập thơ chữ Hán Nhật ký trong tù, Bác Hồ đã viết:
“Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”.
(Bài thơ đề từ- Bản dịch của Nam Trân)
Khát vọng tự do và giải phóng đất nước và con người luôn thường trực trong tâm trí của các chiến sĩ cách mạng cũng như văn nhân ngay cả trong hoàn cảnh bị tù đầy. Điểm chung ấy là nguồn cội cho cảm hứng sáng tạo làm nên một mảng thơ văn độc đáo, riêng biệt. Vẫn biết rằng mảng thơ văn ấy tất cả chúng ta đều không muốn có, nhưng đấy là một sự thật hiển nhiên từng tồn tại trong tiến trình lịch sử dân tộc và nó đã góp phần làm phong phú thêm lịch sử văn chương Việt Nam.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng đã có tới 17 chiến sĩ cách mạng- văn nhân bị quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn bắt bỏ tù. Những cái tên như: Vũ Hạnh, Sơn Nam, Chim Trắng, Lê Quang Vịnh, Viễn Phương, Trần Quang Long, Ngô Kha,… chắc hẳn không còn xa lạ với nhiều người về khía cạnh văn thơ. Nhưng chính họ cũng đã từng sống trong lao tù của quân xâm lược. Có người còn chưa một ngày được hưởng hòa bình, độc lập tự do của đất nước như Ngô Kha (mất năm 1973).
Một điều đáng nói nữa là chỉ tính riêng danh sách 35 tác phẩm, trong đấy có nhiều bộ sách khá đồ sộ mà Lê Văn Ba đã đọc, tham khảo, sưu tập, ghi chép, san định đã ngốn của ông không ít thời gian và tâm sức. Nhờ có tâm huyết, sẻ chia, cộng cảm với những người đồng chí và đồng nghiệp, những người đã từng sống trong nhà tù của quân xâm lược, mới tạo cho Lê Văn Ba một động lực mạnh mẽ, một sức lao động có thể nói là phi thường và nghiêm túc khiến một nhà văn ở tuổi bát tuần như ông dám xông vào một đề tài hóc búa và riêng biệt để hoàn thành một bộ sách quí như vậy. Xin chúc mừng ông!
ĐỖ NGỌC YÊN
…………………….
(*) Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lượca. Lê Văn Ba. Nxb Hội Nhà văn, 2015