Vanvn- Người tôi muốn kể hôm nay là một nhà văn Miền Tây Nam Bộ, trong nhiều bút danh, viết qua nhiều thời, có một tên là Minh Dân, giờ là tên chính thức của cậu con trai. Ngay cái tên Nguyễn Hồ mọi người từng biết, từng gọi cũng chỉ là một bút danh, vì tên khai sinh của anh, không biết là may, hay không may, trùng với tên một vị chức sắc quá nổi tiếng. An ủi để anh không mang tiếng ăn theo, là ông bà đã sinh ra anh trước mấy tháng.

Mấy chục năm quen hơi bén tiếng, kẻ Nam người Bắc, nghề nghiệp cụ thể làm gì không cần biết, công tác lại chẳng liên quan, chủ yếu bên nhau trong các cuộc nhậu, mà tình thân như anh em. Nhiều lần, tôi theo anh về quê ở một địa danh lừng lẫy trong chiến tranh, xã Phong Mỹ, huyện Giồng Trôm, Bến Tre. Một mái nhà ngói cổ, trải bao trận đạn bom cày xới, ẩn trong vườn dừa lão, nơi đó từng có Cụ ông sống đến ngoài 90, Cụ bà đi sau cũng đến ngưỡng tuổi ấy, là những người tham gia kháng chiến suốt mấy mùa; một đàn con lớn lên đều thoát ly để hoạt động. Có chú em hy sinh trong chiến đấu, sau nhiều năm tìm dấu, may mắn có để lại một cháu gái, còn kịp tìm về nhận họ hàng khi ông bà nội còn sống. Trên đường về, lần nào cũng ghé ngoại vi Thị xã – giờ là Thành phố Bến Tre- bù khú, đàm đạo với nhà văn lão thành, tự nhận là cây kiểng còi của vườn văn Nam Bộ, Trang Thế Hy, mà anh gọi bằng chú.
Trong nhiều năm Nguyễn Hồ đã cùng đồng đội góp sức, góp trí, góp lực tạo nên nhiều bộ phim thuộc các thể loại, tạo nên một thời kỳ phải nói là huy hoàng của Điện ảnh và truyền hình phía Nam. Lần lượt giã từ một loạt chức vụ Phó Tổng Giám đốc Đài Truyền hình TP HCM, Giám đốc Hãng phim TFS của Đài, Phó Tổng thư ký Hội Điện ảnh VN, Phó Tổng thư ký Hội Điện ảnh TP HCM, anh vẫn không ngừng làm việc. Mấy bộ phim ký sự dài tập : Ký sự Tân Đảo, sang tận mấy đảo quốc ở Tây Thái Bình Dương lần tìm dấu vết và hậu duệ những người chân đăng bị lưu đày hoặc đi làm phu từ mấy thế kỷ trước. Đi tìm dấu tích ba Vua dài đến 70 tập chiếu trên HTV, lần theo dấu chân ba vị Vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân bị lưu đày, mà anh đồng thời là tác giả kịch bản.
Loạt phim về hơn 20 vị Tướng xứ Dừa (tỉnh Bến Tre), nhiều phim ký sự, tư liệu gần đây của các Đài TH đều có ý tưởng của Nguyễn Hồ. Phác thảo phim ký sự lần tìm dấu vết Đông Du của Cụ Phan Bội Châu, và những dấu ấn nhà yêu nước để lại đang chờ cơ hội để lên đường. Nguyễn Hồ còn săn đón, động viên, cung cấp tư liệu để nhà văn Trần Thùy Mai, vừa chăm sóc chồng ốm nặng, vẫn hoàn thành mấy chục tập bộ phim truyện về Bà Thái hậu Từ Dũ, một người phụ nữ Nam Bộ, mấy chục năm ở trong chốn Cung đình không mấy khi yên ổn, vẫn giữ được lòng nhân hậu, đức khiêm cung, nổi tiếng là bậc Mẫu nghi trong triều đình phong kiến Việt Nam.
Cần cù và tỉ mẩn, lặng lẽ truy tìm tư liệu khoa học cho các phim đủ loại hình, đến mức có khi hai ba tháng liền Nguyễn Hồ không ra khỏi nhà. Ngụy Ngữ có lúc nói với tôi: Ông phải vào gọi Nguyễn Hồ ra khỏi nhà, chứ ở nhà mãi e hắn trầm cảm với tự kỷ mất. Nhưng lần này vào, anh lại đang đi cộng tác với Vĩnh Long, nơi có một Đài truyền hình địa phương đang vươn lên tốp đầu về doanh thu trong gần 70 Đài TH cả nước, dù lúc này, nhà báo Minh Hiền, vợ anh, mấy chục năm mang trọng bệnh, mấy lần điều trị hóa chất, tóc rụng rồi tóc lại mọc.
Ấm ức hộ bạn, vì một người có công như thế với cách mạng, với báo chí văn chương, và đặc biệt với phim Điện ảnh và Truyền hình nước nhà, mà mấy lần khen thưởng, anh có nghiêm túc khai báo đàng hoàng, mà rồi vì tham gia nhiều nơi, nhiều việc, Hội này đẩy Hội kia, tên anh bị bỏ quên, tôi đã muốn viết một cái gì đó về Nguyễn Hồ. Nhưng anh đã mấy lần từ chối.
Ngày 9.9.2012, anh đã viết cho tôi một lá thư khá dài bày tỏ tâm trạng mình. Tuy là thư riêng, và do là thư riêng không có ý định công bố, nhưng sau tròn ba năm gìn giữ, đọc lại, tôi thấy tốt nhất, là công bố bức thư này. Nó giúp những người có trách nhiệm hiểu hơn tâm trạng của không chỉ một cá nhân, những người đã gây dựng nên một thời sôi động của VHNT trong kháng chiến và mấy mươi năm trong hòa bình, không vì mục đích để được khen thưởng. Mà bây giờ, chắc Nguyễn Hồ cũng không muốn tiếp tục làm vì mục đích đó. Chỉ có điều, một nền văn hóa, văn nghệ lành mạnh không thể không nuôi dưỡng tinh thần quên mình và tận tụy của đội ngũ những người tự nguyện và hết mình cho sự hoàn thiện của những tác phẩm văn học nghệ thuật trước khi chào đời: Những người làm công tác BIÊN TẬP.

“ …Tôi nay đã 70 tuổi đời, 51 tuổi Đảng rồi, tuy cả đời không ham chức vụ nhưng lại coi trọng trách nhiệm công dân, trách nhiệm chiến sĩ, có cả trách nhiệm đảng viên thời chiến nữa, nên đã thành tật, tôi tự nguyện nhận nhiều công việc khó khăn trong hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Tôi có cái bịnh “làm chủ” từ kháng chiến cho tới hòa bình, làm việc gì cũng tự cho mình là chủ… Kế đó là bịnh né tên tuổi, chức danh. Suốt mấy chục năm trời viết báo, làm phim, tôi chỉ ký bút danh Nguyễn Hồ không đầy 5% số tác phẩm vậy mà còn thấy hơi bị nhiều. Né tên hình như là gien di truyền của gia đình tôi. Hồi làm cán bộ học sinh Bến Tre, tôi sáp với cánh võ trang của Võ Viết Thanh (Có thời là Chủ tịch UBND TP HCM – NT) đi phá thế kìm kẹp trong đêm 11.11.1960, cái đêm Phan Lạc Tuyên và Thủy Thủ đảo chánh Ngô Đình Diệm. Thị xã ủy chờ lệnh trên còn đám tụi tôi thì “chớp thời cơ”, giả dạng Giải Phóng Quân, mặc quần áo xanh, vác cây cau làm súng Bazoca đi xé cờ, xé ảnh Ngô Đình Diệm, nửa đêm bị lộ, địch bắn cho một trận phải long xuống rạch mà chém vè, vậy mà vẫn không quên dấu biệt với cấp trên cho tới ngày nay. Truyện ký Thời lửa rơm tôi viết về đêm ấy được giải nhì (Không có giải nhất) của báo Tuổi trẻ thời Kim Hạnh.
Năm 1961, ngày 1 tháng 4 đánh vào Thị xã Bến Tre, tôi được trưng dụng Thư ký cho Tổng Tư lịnh là Nguyễn Thị Định, thư ký một đêm, viết hai lá bạch thư rồi giải tán vì kế hoạch bị vỡ. Thế mà Cô Ba Định ít khi gọi đúng tên tôi. Bà thường kêu tôi là Vũ Hồ, tên một tiệm bánh nổi tiếng ở Bến Tre. Cũng năm 1961, đang là Chánh Văn phòng Thị xã ủy ngon lành, tôi quyết định không cần suy nghĩ khi có lệnh điều động của Tỉnh uỷ: Đi làm báo. Làm báo lúc này là chép tin đọc chậm, lội rừng đi lấy tin, đêm muỗi đốt không kịp vuốt mặt,ngày ruồi bu kín chén cơm. Lên rừng Miền Đông học xong lớp báo chí thì về làm báo R, suốt 11 năm đi hết các chiến trường, các chiến dịch lớn. Chiến dịch Junction City tôi chỉ huy du kích cơ quan, đánh xe tăng, rốt cuộc chết 4, còn lại một mình. Gian khổ, chết chóc không sợ, chức tước không màng, chỉ ham viết mà có viết được gì đâu.
Vì có lý lịch tốt cũng như yêu nghề, yêu việc nên tôi có khá nhiều cơ hội để thăng tiến nhưng tôi thích lùi hơn. Trong chiến tranh, Tổng biên tập Thép Mới cử tôi đi trong đoàn của Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát thăm Vương quốc KPC của Quốc Vương Shihanuc. Chuyến đi này rất quan trọng trong việc mở đường chi viện cho chiến trường Miền Nam. 3 phóng viên được cử tháp tùng Đoàn là Hồng Sến, Lâm Tấn Tài và tôi. Chiến tranh Đông Dương, tôi một mình đi với F ( Sư đoàn) 5 giải phóng Xiêm Riệp, rồi giúp Trung đoàn 203 thành lập Canak Commaka Phum Angkor Wat. Báo Giải phóng có 3 phòng thì tôi là Trưởng phòng biên tập, Tuất Việt, phòng nghiên cứu tổng hợp; Đinh Phong, phòng Thư ký Tòa soạn.
Sau 30.4.1975, tôi là Tổ trưởng tổ biên tập và phóng viên của tờ báo dã chiến Sài Gòn Giải phóng và suốt 15 số đầu tiên, tôi kiêm luôn nhiệm vụ Thư ký Tòa soạn, Tuất Việt lo hậu cần, Đinh Phong giữ căn cứ đề phòng phải quay trở lại. Nửa tháng bám trụ,đảm đương công việc tôi chỉ mong ngày mình được giải phóng để về quê thăm ba má, sau đó đi viết. Sau đó nữa, khi là Trưởng phòng biên tập của nhật báo Giải phóng, tôi từ chối hai cơ hội vàng khác: Không nhận giấy triệu tập đi học Nguyễn Ái Quốc do anh Võ Quang Trinh triệu tập( anh em rủa tôi ngu, đi học có nghĩa là được cơ cấu rồi), chỉ vì lý do chưa viết để trả nợ chiến trường; kế đến là từ chối luôn gợi ý của anh Lành về báo Nhân Dân làm Phó ban Nông thôn, sau loạt bài viết về cải tạo nông nghiệp ở Gò Công của tôi. Cũng thời điểm này tôi nhận được thư anh Hai Trung, Bí thư Tỉnh ủy mời tôi về ngồi ghế Phó ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, để sau đó vô Thường vụ để làm Trưởng Ban, tôi đã cảm ơn và từ chối. Tất cả sự “ngỗ ngược” chẳng qua là vì ham viết. Từng có mấy năm làm Trưởng ban biên tập kinh tế báo Đại Đoàn kết (đến 1980). Có điều, tôi tự mâu thuẫn ở chỗ, tuy rất ham viết nhưng cũng hết sức say mê công việc không tên, gọi là biên tập. Công việc này đã ngốn hết 90% thời giờ của tôi, mãi cho đến khi về hưu, mới nhận ra mình đã giành hết quỹ thời gian cho công việc vác tù và hàng tổng và đỡ đẻ cho thiên hạ. Còn sự nghiệp riêng thì coi như chẳng có gì.
Điều nhận ra cuối cùng (và thấm thía) của tôi là ở xã hội ta, nghề đỡ đẻ, biên tập bị coi thường quá: không danh hiệu, không giải thưởng, không tôn vinh… Tôi không hiểu điều này, nên công việc biên tập của tôi luôn là tâm huyết, là mang nặng đẻ đau, như là sáng tác. Tôi đã làm 10 năm cho hãng phim Giải phóng, thời kỳ đỉnh cao: 10 phim truyện nhựa, 10 phim tài liệu nhựa, và 10 phim hoạt hình nhựa mỗi năm. Để có 30 kịch bản này phải chuẩn bị hàng trăm kịch bản, mười phần hết bảy còn ba, hết hai còn một, mới hy vọng được duyệt. Tôi mất 3 năm biên tập cho hãng Phương Nam bắt đầu từ con số không. Và sau đó là 10 năm gây dựng hãng phimTFS thành một thương hiệu, mỗi năm sản xuất 150 giờ phim truyện, hàng trăm phim tài liệu, hàng ngàn phim phóng sự và sản xuất chương trình định kỳ hàng tuần. Tất cả các phim tôi chỉ đứng tên biên tập, không hề sử dụng quyền hành để đứng tên “chỉ đạo” hay cố vấn sản xuất nầy nọ…
Tôi đã góp phần đáng kể để tạo uy tín thương hiệu cũng như doanh thu của HTV. Thời đó, TFS không ai được nhận phong bì, nhưng thu nhập chính đáng thì được nâng cao vì chất lượng chương trình. Hầu hết phim là do tôi nghĩ ra, đề xuất, và dốc sức làm từ A đến Z. Nghĩa là tôi lao động cật lực để có một sự nghiệp truyền hình. Lê Văn Thảo hồi đó trêu tôi: Lúc nào cũng thấy thằng Hồ trật dây nịt (xỏ thiếu quai).
Chính vì bức xúc quá nên tôi tính thử thì hóa ra trong 30 năm làm hàng trăm phim đủ các thể loại, tôi đã góp phần đem về cho 3 hãng phim Giải phóng, Phương Nam, và TFS tới 37 giải Vàng, Bạc, làm nên thương hiệu 2 hãng PN, TFS, đồng thời đảm đương trách nhiệm trưởng phòng biên tập hãng phim Giải phóng trong thời kỳ khó khăn và rực rỡ nhất. Đóng góp phần sáng tác kịch bản phim truyện của tôi cũng khá nhiều, với những bộ phim nổi tiếng (Vùng gió xoáy, Lưỡi dao, Chung cư, Chúa tàu Kim Quy, Đất phương Nam, Mê Kông ký sự, Ngọn nến Hoàng cung, Người Bình Xuyên, Blouse trắng…). Tôi đã đỡ đẻ cho một thế hệ đạo diễn trẻ để họ có phim đầu tay khẳng định tài năng. Nghĩ là việc mình làm ai cũng biết, nên tôi đăng ký Giải thưởng Nhà nước với “quốc tịch” Điện ảnh. Hội đồng TPHCM thông qua 100%. Nhiều người trong Hội đồng kinh ngạc nhận ra và không hiểu sao tôi làm việc kinh khủng đến như vậy. Vậy mà rồi không hiểu sao, tôi lại bị bật sang danh sách ở Hội Nhà văn, mà tôi có đăng ký bao giờ?…
Mình về hưu rồi, ở vùng sâu vùng xa, lại bỏ số điện thoại cũ, không quan hệ để khỏi làm phiền bạn bè, chỉ lo làm phim. Không giống như hồi đương chức, cái gì cũng nhất hô bá ứng, đằng đông có mây, đằng tây có sao. Tôi còn nhớ, lúc còn là Phó Giám đốc HTV, Giám đốc TFS, tôi đề xướng việc đề cử Lê Cung Bắc, Ngọc Hiệp và Lê Trường Tiếu danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Ba người này không nằm trong biên chế của HTV, TFS. Nhưng họ là những nghệ sĩ đã góp phần làm nên tên tuổi của TFS. Họ xứng đáng. Nhưng có lẽ chỉ một lần đó thôi, sẽ không có lần thứ hai, khi Giám đốc Phạm Khắc và tôi đã nghỉ…
Nhà tôi có chuyện rất vui, e không giống ai. Hồi nghe tôi được Huân chương Độc lập, rồi Huân chương Lao động, con tôi hỏi mẹ nó, người ta có lộn không vậy mẹ? (Mà tôi cũng không khai, không xin. Phạm Khắc và Đinh Phong biết lý lịch, khai cho tôi)… Nhà dưới quê, hồi còn sanh tiền, má tôi kiên quyết không báo công kháng chiến, tù tội mấy lần cũng bỏ qua. Ba tôi hầu cũng như vậy. Mấy anh em tôi cũng giống ba mẹ, không bao giờ kể công. Trong nhà, vợ tôi giành cả đời để gây dựng nhiều tờ báo, nhưng không khai báo để được huân chương này nọ. Ông chú Trang Thế Hy của tôi cũng vậy. Xong rồi thôi….”
Tôi ngàn lần xin lỗi anh Nguyễn Hồ khi không xin phép anh công bố những điều anh muốn chỉ dành riêng cho một mình tôi, vì tôi nghĩ, anh có thể không còn cần, nhưng cần thiết để cho nhiều người đang tiếp tục lặng lẽ, âm thầm làm những công việc như anh đã và đang làm.
NGÔ THẢO
Đại Đoàn Kết 2015