Người đàn bà dưới chân cầu Hàm Rồng – Truyện ngắn Quỳnh Vân

Vanvn- Con đường tôi thường thả bộ mỗi ban mai khá vắng vẻ. Nó nguyên là đoạn bờ hồ chan chan liễu rủ. Cách đó một đoạn không xa là những dãy nhà hàng chuyên về đồ hải sản suốt ngày ồn ào, náo nhiệt.

Nhà tôi nằm ở khoảng giữa của hai không gian ấy. Đã thành lệ, khi chương trình tập thể dục buổi sáng trên ti vi phát nhạc cũng là lúc tôi thức giấc. Luồn vội đôi giày thể thao vào chân, tôi mau mải bươn ra đoạn bờ hồ quen thuộc. Cứ đi xuôi rồi đi ngược, chỉ cần vòng qua vòng lại dăm lần là tương ứng với đôi ngàn mét. Đàn bà hai mặt con như tôi mà không chịu vận động thì nhoáng cái đã biến thành cái “thùng phi di động” ngay. Tôi chăm đi bộ còn vì một lẽ khác. Vài mươi phút tĩnh lặng hiếm hoi ấy, tôi thường thả sức tư duy và ngẫm ngợi.

Nhà văn Quỳnh Vân ở Hà Nội

Hôm nay, trời bắt đầu chuyển gió heo may. Khoác thêm chiếc áo gió lên người, tôi hăm hở băng ra đường. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng, rặng liễu xao xác hơi may… Mùa thu Hà thành thật đẹp. Nó gợi cho ta nhớ tới một thời tuổi hoa êm ả thanh bình. Những kỷ niệm đẹp đẽ khó quên cứ hiện lên tựa như thước phim quay chậm. Tôi đang sải những bước dài thư thái thì bất ngờ vập phải một người đàn ông vừa trờ tới. Ông lướt ánh nhìn qua tôi rồi bỗng dưng kêu lên thảng thốt:

– Tầm, Tầm phải không?

Tôi cũng tròn mắt ngạc nhiên:

– Bác gọi ai thế ạ?

Một phút lúng túng qua nhanh, người đàn ông nhìn soi vào tôi lần nữa rồi cất tiếng cười giòn:

– Tôi lẩm cẩm thế đấy cô ạ. Cái cô Tầm mà tôi quen giờ đã thành bà lão chứ làm sao còn trẻ trung như cô được?

Lây sự hồn nhiên của ông, tôi cởi mở bắt chuyện:

– Trông cháu giống người bác quen lắm ạ?

Ông ngắm tôi lâu hơn một chút rồi thở dài:

– Giống, giống lắm, nhất là đôi mắt.

– Chắc cô ấy, à quên… bà ấy với ông phải có mối quan hệ rất đặc biệt?

Chỉ tay về phía căn nhà nằm cách đó không xa, ông nhẹ nhàng bảo tôi:

– Tôi vừa thuê ngôi nhà có mái tôn xanh để làm xưởng vẽ. Nếu lúc nào cháu rảnh, hãy ghé qua nhé. Có một bức tranh tôi vẽ cô Tầm ngày xưa, cháu mà trông thấy sẽ giật mình đấy.

Câu chuyện của ông làm tôi rất đỗi tò mò, liền gặng hỏi:

– Nhưng cô Tầm với bác là thế nào ạ?

Mỉm một nụ cười thật trẻ so với độ tuổi, ông bảo:

– Cô ấy là một kiện tướng thồ hàng vào cái thời mà không quân Mỹ bắn phá cầu Hàm Rồng cháu ạ. Bác đã vẽ cô Tầm trong một đêm pháo kích… Mà thôi, chuyện dài lắm. Cháu đến sẽ biết ngay mà.

Nhìn theo cái dáng chắc, đậm ung dung của người hoạ sĩ đi xa dần, lòng tôi cứ vẩn vơ dự cảm về một mối tình đẹp nhưng trắc ẩn nào đó.

Không hẹn trước, một ngày mưa tầm tã tôi đột ngột đến thăm xưởng vẽ của ông. Nó bề thế và hoành tráng hơn tôi tưởng rất nhiều. Trên tường là tranh, dưới kệ là tượng; nền nhà la liệt các bức vẽ dang dở. Ông đón tôi bằng nụ cười hóm hỉnh:

– Bác biết là cháu sẽ đến sớm mà.

Lau vội đôi bàn tay nhem nhuốc các loại màu vẽ vào tấm giẻ, ông nhanh nhẹn vào phía góc tường mang ra một khung ảnh cỡ trung. Phủi qua lớp bụi, xoay về phía tôi nhỏ nhẹ:

– Là cô Tầm đấy cháu!

Tôi gần như ngã ngồi khi chạm vào ánh mắt của người đàn bà trong tranh. Nếu cứ đem tranh này mà treo trên tường phòng tôi, chẳng ai mảy may nghi ngờ về tính trung thực của nó. Sao lại thế được chứ ?

– Giống cháu như cùng một khuôn đúc phải không ?

Cái giọng thủ thỉ nhưng rõ từng âm sắc của ông kéo tôi về thực tại. Ngắm kỹ bức chân dung người đàn bà đứng bên cây cầu Hàm Rồng huyền thoại, một cảm giác thân thuộc cứ chầm chậm dâng tràn trong tâm hồn tôi.

…. Tôi lớn lên đã không thấy mẹ. Bà bán chè chén dưới gốc phượng đầu con phố cũ đã nuôi tôi bằng những đồng tiền nhàu nát, còm cõi kiếm được rất nhọc nhằn. Chiến tranh ùng oàng súng nổ. Có lúc người dân đi sơ tán hết, bà cháu tôi vẫn nấn ná ở lại. Quán nước đêm đêm vẫn sáng đèn, chủ yếu phục vụ các bác, các chú công nhân Nhà máy Đường Lam Sơn và cô chú dân quân tự vệ đóng ở đầu phố. Lâu lâu có đơn vị bộ đội hành quân ghé qua, quán bà cháu tôi bỗng trở thành trạm dừng chân lý tưởng. Tôi thường lân la làm quen với họ và thế nào cũng phải chạm bằng được vào những khẩu súng xanh ngời ánh thép. Thấy tôi dạn dĩ dễ gần, chú bộ đội nào cũng thích bẹo má trò chuyện. Mỗi bận như thế, đôi mắt bà lại sáng lên:

– Ấy, bố con hĩm này cũng là bộ đội chủ lực đấy. Đang chiến đấu mãi đâu trong Quảng Trị, vài năm nay chẳng có tin tức gì. Các chú vào trong đó, có thấy ai người đen trùi trũi, hát hay nổi tiếng thì nhắn giùm rằng tôi đang nuôi cô con gái cho anh ấy nhé.

Hàng quân lao xao, xì xầm. Rồi một chú bộ đội rẽ đám đông cúi xuống chỗ bà cháu tôi ngồi, ân cần:

– Anh ấy tên là gì hả bà?

– Minh, Minh Đen. Người ở Chũ, Mẹt gì ấy. Anh ấy là bộ đội cao xạ, ngày trước đóng quân dưới chân cầu Hàm Rồng kia kìa. Anh ấy yêu một cô dân quân hỏa tuyến nghe đâu là người cùng làng. Gặp nhau rồi đi, cô ấy ở lại và đẻ ra con hĩm này đây. Rõ khổ. Mẹ thì hy sinh, bố chiến đấu ngoài mặt trận. Bà thương mới đón về nuôi. Dưng bom đạn thế này, bà cháu tôi chẳng biết chịu được mấy đỗi.

Rất nhiều cánh tay âu yếm xoa lên đầu tôi rồi đoàn quân rùng rùng chuyển động. Tôi cứ ngẩn người nhìn ngắm những bóng quân phục lặng lẽ đi trong đêm mà da diết nhớ người cha chưa một lần gặp mặt. Khi tôi quay lại, bà đã dọn xong quán hàng. Chiếc thúng đựng dăm lọ kẹo bỗng đầy ự những bánh lương khô mà các chú bộ đội đã kín đáo bỏ lại. Bà nhìn tôi, ánh mắt ánh lên hy vọng:

– Thêm một đoàn quân nữa ra chiến trường, bọn Mỹ sẽ chết nhanh thôi. Bà đã nhắn cho bố hĩm rồi nhé. Chả mấy nữa bố cháu sẽ về đón cháu thôi. Nào, bà cháu mình về thôi. Con bám vào vạt áo bà kẻo ngã.

Tôi lũn cũn nương theo cái dáng siêu siêu của bà, bước về phía căn nhà quen thuộc. Trong đầu vẫn chưa dứt hình ảnh oai hùng của các chú bộ đội vừa đi qua. Đêm ấy trong mơ tôi thấy bố về, áo nồng mùi thuốc súng. Một chân bố di chuyển bằng chiếc lạng gỗ rất khó khăn. Bố ôm lấy tôi và bố khóc…. Tôi chẳng hiểu gì nhưng thấy bố khóc thì cũng nức nở phụ họa. Ban đầu tôi còn khóc bé, sau to dần rồi òa lên nức nở. Khi bà lay tôi tỉnh dậy thì nước mắt đã ướt đầm chiếc gối cũ kỹ nồng mùi quết trầu của bà. Vẫn cái giọng chửi yêu quen thuộc, bà khẽ khàng:

– Bố cô chứ, mơ cái gì mà khóc nức lên thế hả con ? Nào, lại đây bà gãi lưng cho. Hĩm ngoan, hĩm ngủ rồi mai bà cho ra đón các chú bộ đội nữa nhé!

Tranh của họa sĩ Lê Thị Hường

Trong tiếng ru ầu ơ buồn buồn của bà lão, tôi ngủ một giấc thật say cho đến khi sáng bạch. Cứ thế tôi lớn dần lên. Năm tuổi tôi đã biết phồng má thổi lửa đun nước giúp bà. Bảy tuổi tôi đã biết kéo chiếc bao tải đi dọc phố nhặt từng chiếc lá khô về cho bà thổi nấu. Lên tám tuổi tôi được chú công an tổ dân phố dậy cho biết đọc, biết viết. Vốn sáng dạ lại chịu khó tập đọc tập viết nên tôi tiến bộ rất nhanh. Chỉ vài tháng đã đọc làu làu cuốn chuyện cũ nát của bác thợ cắt tóc. Tôi nhẩm 4 phép tính cũng rất thành thạo. Điều này khiến bà vui hơn cả. Bởi như thế tôi sẽ giúp bà được nhiều hơn trong tính tiền cho khách. Rồi cũng đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi hân hoan cắp sách đến trường. Rất nhiều đoàn quân trở về ngang qua quán nước nhà tôi. Nhưng chờ mãi mà bố tôi vẫn chưa đến. Đoạn phố cũ đổi thay từng ngày, nhưng quán nước của bà cháu tôi thì vẫn ở nguyên chỗ cũ. Bà thường thầm thì:

– Bà đã nhắn với bố cháu rồi. Phải ở đây để đón bố chứ. Nếu bà có chết hĩm cũng đừng đi đâu nhé. Thư thả ít bữa bà sẽ nhờ người đưa con đi tìm mộ mẹ. Ngày ấy….

Bà kéo tôi vào lòng, lưng bà còng gập khiến mái đầu phơ phơ tóc bạc chỉ chạm tới vai tôi:

– Hĩm lớn nhanh quá, đã ra dáng rồi đấy. Càng lớn càng giống mẹ như khuôn đúc ấy thôi! Lớn rồi thì bà kể chuyện cho mà nghe. Kẻo nữa bà mất, con lại chẳng biết ngọn nguồn mà tìm về.

…. Qua lời kể của bà, tôi được biết mẹ tôi là người kinh Bắc. Vì trót nặng lòng thề nguyền với cậu bạn hàng xóm lên đã xung phong đi dân công hỏa tuyến để tìm người yêu. Bố tôi bấy giờ là bộ đội pháo cao xạ chốt giữ tại cây cầu Hàm Rồng này. Mẹ tôi cứ theo các cánh quân đi mãi, vào đến bờ Nam sông Mã thì gặp được bố tôi. Mẹ đã rời đội dân công hỏa tuyến và xin nhập vào đội dân quân tự vệ của làng Nam Ngạn để được gần người mình yêu. Chiến tranh mỗi ngày một ác liệt, hai người chưa kịp làm đám cưới thì bố tôi được lệnh lên đường vào chiến đấu ở Thành cổ Quảng trị. Đêm cuối cùng họ gặp nhau, chính bà lão đã cho họ ngồi nhờ quán nước nghèo của bà. Sáng ra, bà chỉ thấy mẹ tôi héo rũ trong nước mắt, bố tôi thì đã đi rồi. Từ đó mẹ tôi cứ hết giờ trực chiến lại tìm về đây với bà. Lâu dần hóa quen, bà liền bảo mẹ dọn luôn về ở bởi bà cũng chỉ có một mình. Mẹ tôi mừng lắm, cứ ôm lấy bà mà khóc. Thế rồi, đang là cô dân quân tự vệ dũng cảm giỏi giang của thị trấn, mẹ đột ngột xin nghỉ để về quê. Vừa thu dọn đồ đạc, mẹ vừa khóc suốt, bà hỏi thế nào cũng nhất định không nói. Gặng mãi mẹ mới ôm lấy bà thổn thức:

– Con khổ quá bà ơi!

Rồi mẹ cầm tay bà đặt vào khuôn bụng cứng ngắc. Thì ra mẹ đã mang thai tôi đến tháng thứ 7. Đang thời kỳ thai nghén nhưng mẹ vẫn ngày ngày trực bắn máy bay; chỉ có điều cứ phải quấn bụng rõ chặt để che mắt mọi người. Không thể về quê với cái bụng ngày một to dần; cũng không thể hàng ngày lên trận địa trực chiến được nữa, mẹ tôi định âm thầm bỏ đến một nơi khác để sinh con. Nhưng bom đạn loạn lạc thế này, biết đi về đâu?

Thời ấy con gái chưa chồng mà có con, dư luận còn khe khắt lắm. Thương mẹ bụng mang dạ chửa, tứ khố vô thân, bà lão bán nước tốt bụng đã cho mẹ ở lại, giấu mẹ trong chiếc buồng tối tăm ẩm mốc của một người bà con ở nơi sơ tán cho đến ngày tôi được sinh ra. Khi tôi được 3 tháng tuổi, mẹ tôi đã bồng tôi trở về quán nước của bà. Để tránh điều tiếng dị nghị, bà lão đã dọn cả quán nước và đưa mẹ con tôi về góc phố bây giờ. Bà thường nói với mọi người: Đây là con cháu gọi tôi bằng dì ruột. Chồng nó đi B chiến đấu chưa có tin tức gì. Mẹ tôi phụ bà bán hàng, tham gia đội tự vệ thành phố Thanh Hóa chiến đấu để chờ bố tôi trở về. Thế rồi trong một lần cõng đạn lên trận địa để các pháo thủ chiến đấu, mẹ tôi bị mảnh bom văng trúng ngực đã vĩnh viễn nằm xuống. Tôi ở lại với bà từ ngày đó. Kỷ vật duy nhất mà mẹ để lại cho tôi là một mảnh vải dù pháo sáng lỗ chỗ vết đạn. Trên đó có thêu tên bố mẹ tôi.

Thật kỳ lạ, trong bức ảnh tôi đang cầm trên tay, người đàn bà cũng khoác trên vai mảnh dù pháo sáng. Tôi hỏi ông họa sỹ già mà giọng cứ lạc đi:

– Bác gặp nhân vật của mình vào thời điểm nào ạ ?

– Khoảng cuối năm 71, đầu năm 72 cháu ạ.

Tôi làm phép tính trừ. Nếu đúng đó là mẹ tôi thì thời điểm này bà vẫn còn ở đội dân quân hỏa tuyến, nghĩa là chưa gặp cha tôi. Nhưng mảnh dù pháo sáng… ? Đánh bạo, tôi tiếp tục tìm hiểu tiếp:

– Bác có biết gì về người đàn bà này không ạ.

Người họa sĩ trầm ngâm một lát rồi quả quyết:

– Biết, nhưng không nhiều lắm. Hôm ấy quân dân Hàm Rồng Thanh Hóa vừa đập tan trận oanh tạc của không quân Mỹ xuống cây cầu. Cũng vào đêm hôm ấy, cô gái này đang thồ hàng ra mặt trận thì lại gặp được người yêu ở ngay chân cầu Hàm Rồng. Cháu nhìn ánh mắt ngời ngợi hạnh phúc của cô ấy mà xem. Trong lúc trò chuyện với bác, cô ấy có tiết lộ là vừa gặp được người yêu. Chiếc dù pháo sáng cô quàng trên cổ chính là vật đính ước của 2 người. Nhưng nghe đâu anh người yêu lại sắp sửa cơ động vào tuyến lửa. Bác chỉ biết có vậy thôi.

Tôi lắp ráp nhanh các dữ kiện của bài toán: Bố tôi vào chiến trường Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, nghĩa là… Mẹ tôi đã gặp cha tôi được vài tháng rồi ông mới theo đơn vị vào sâu trong Quảng Trị. Như thế chắc chắn bố đã biết mẹ đang mang thai tôi. Mảnh dù pháo sáng là vật đính ước ư ? Mảnh dù ấy có thêu hai chữ Minh – Tâm bằng chỉ tím khá bay bướm. Nhưng rõ ràng đó là chữ Tâm chứ không phải Tầm. Người họa sĩ nghe nhầm hay chữ thêu thiếu nét? Ngày ấy, bà lão bán nước đã kể cho tôi nghe vô khối chuyện về mẹ, nhưng bà đều gọi mẹ tôi bằng một cái tên rất thân mật là chị Cả, chứ rất ít khi gọi bẳng tên thật. Mà thôi, cả Tâm hay Tầm thì cũng không phải tên thật của mẹ tôi. Khi tôi tìm được cội nguồn, bà ngoại của tôi thường gọi mẹ tôi bằng cái tên dân dã, đậm chất miền quê: Chanh. Bạn bè của mẹ cũng gọi là Chanh. Tôi chỉ tìm thấy cái tên Tâm trong cuốn sổ tay của mẹ đã ố vàng. Có thể thời con gái mẹ tôi từng rất thích cái tên ấy, hoặc giả tên Tâm là quy định riêng của bố mẹ tôi dùng để gọi nhau.

Miên man mãi cũng thấy bất tiện, tôi quay sang trò chuyện với ông họa sĩ già dăm ba câu rồi gióng giả ra về. Thấy tôi cứ nhìn hút vào tấm ảnh Người đàn bà bên cầu Hàm Rồng, ông tủm tỉm cười hiển :

– Nếu cháu muốn, bác sẽ sao cho tấm khác. Còn tấm này bác đã dự định mang đến phòng tranh triển lãm rồi.

Tôi đành bấm bụng ra về với lời hẹn sẽ còn quay trở lại. Ra khỏi xưởng vẽ khá lâu, trong tôi vẫn rối bời vì những suy nghĩ không đầu không cuối. Kí ức về mẹ, về cha… những người tôi chưa từng gặp mặt. Kỷ niệm về năm tháng tuổi thơ nhọc nhằn bên bà lão bán nước… về những ngày cắp sách đền trường không có cha đưa, mẹ đón… Tất cả, tất cả cứ như thực, như mơ.

Bẵng đi một thời gian khá lâu, tôi bất ngờ gặp lại ông họa sĩ già tại ga Hà Nội. Ông và tôi không hẹn mà cùng lên một chuyến tàu. Ông xuống ga Quảng Ngãi, tôi đến ga cuối cùng là Thành phố Hồ Chí Minh. Để tiện trò chuyện cùng tôi, ông nhanh nhảu đổi vé cho một hành khách rồi sang gồi cùng ghế với tôi. Trước khi tôi kịp mở lời, ông lục trong chiếc cặp lấy ra một mảnh giấy ghi địa chỉ số nhà, số điện thoại của một người đàn ông tên Nghĩa rồi trao cho tôi :

– Người này biết rất rõ về mẹ Tầm của cháu. Ông ấy tình cờ xem được tấm ảnh mẹ cháu trong triển lãm. Sau khi nghe bác kể việc tình cờ gặp lại cháu, ông ấy vui lắm. Ông ấy bảo cháu muốn biết về bố mẹ mình thì cứ đến địa chỉ này.

Thì ra bác ấy đang sống ở gần cầu Hàm Rồng, nơi tôi từng được sinh ra, cũng là nơi mẹ tôi đã nằm lại. Không biết cha tôi giờ đang ở phương nào? Nóng lòng muốn biết thêm về mẹ, tôi quyết định hoãn chuyến công tác và xuống ga Thanh Hóa.

Phải dăm bảy lần hỏi thăm, tôi mới đến được địa chỉ mình cần. Giống như ông họa sĩ già, vừa nhìn thấy tôi xuất hiện ngoài khung cửa, người đàn ông tên Nghĩa đã đứng bật dậy, đôi mắt lộ rõ vẻ kinh ngạc:

– Không thể giống hơn được nữa. Cháu đúng là bản sao hoàn hảo của mẹ.

Ông kéo tôi vào nhà, chỉ cho tôi thấy một tấm hình đen trắng được treo trang trọng trên tường. Ảnh đã ố vàng nhưng vẫn rõ khuôn mặt của hai cô gái thanh niên xung phong đang cười rất tươi. Một trong hai cô gái ấy có gương mặt vô cùng giống tôi. Phía sau khuôn hình, tôi bắt gặp nét chữ con gái tròn trặn chân phương trong dòng chữ :  “Nhớ mãi Phượng – Chanh”. Khuôn mặt ấy, cái tên ấy, địa danh ấy… Không còn nghi ngờ gì nữa, người con gái trong ảnh chính là mẹ ruột của tôi. Chờ tôi qua cơn xúc động, ông Nghĩa mới nhẹ nhàng kể lại: Mẹ cháu và Phượng – em gái bác vốn là đôi bạn rất thân trong đội thanh niên xung phong chốt giữ cầu Hàm Rồng. Ngày ấy mẹ cháu đẹp lắm, đẹp nhất cái đám con gái gan lỳ trông quân mà bác phải quản lý. Cô ấy khác hẳn cánh cái Thắm, cái Phượng ở nước da mịn màng trắng trẻo và dáng người thanh thoát. Hay nói một cách khác, cô ấy vốn là hoa khôi của vùng trọng điểm này.

Sau những ca trực chiến, Chanh thường cùng em gái bác về nhà lục cơm nguội ăn rồi lăn ra ngủ. Đẹp người, tốt nết, cô ấy được rất nhiều người thầm yêu, trộm nhớ, trong đó có cả bác. Nhưng em gái bác kể, Chanh đã có người yêu, anh ấy là bộ đội pháo cao xạ hiện đang chiến đấu ở thành Quảng Trị. Cô ấy xung phong ở lại khu vực trọng điểm này là muốn chia lửa với người yêu, muốn ở lại để chờ anh ấy. Kế hoạch ban đầu của mẹ cháu là thế, nhưng khoảng nửa năm sau, chẳng hiểu vì sao Chanh đột ngột xin về quê, nói thế nào cũng không ở lại. Cô ấy đi rồi, cả tổng đội ai cũng nhớ, cũng thương. Ngay cả cái Phượng nhà bác, cô ấy cũng không cho biết lý do. Nhưng rôi cũng khoảng nửa năm sau, trong một lần tình cờ lên chi viện cho đơn vị pháo cao xạ, bác đã gặp lại Chanh. Cô ấy còn đẹp và giòn hơn cả trước nữa. Cô ấy bảo đã lấy chồng và đang ở nhà người quen dưới chân cầu Hàm Rồng. Nhưng không ngờ lần gặp ấy cũng là lần cuối cùng của bác và mẹ cháu. Hôm ấy, không quân Mỹ càn quét cầu Hàm Rồng rất ác liệt. Đầu ngày, hàng chục tốp máy bay nối đuôi nhau vào thả bom B-52 xuống cầu Hàm Rồng hòng căt đứt tuyến huyết mạch giao thông vận tải của ta.

Đêm ấy, chúng lại tăng cường máy bay oanh tạc khiến làng mạc bị thiêu cháy rụi, hàng trăm người dân vô tội bị chết và bị thương. Lửa hơn căm lũ cướp nước ngùn ngụt bốc lên, đơn vị bác và đơn vị dân quân tự vệ của mẹ cháu đều hăng hái lên trận địa, giúp bộ đội pháo cao xạ tải đạn, cứu thương. Và trận đánh của đế quốc Mỹ vào đê Sông Mã, ngay sát cầu Hàm Rồng đã vĩnh viễn khiến mẹ cháu nằm lại mảnh đất này. Cô ấy bị mảnh bom văng trúng ngực, không kịp trăng chối một lời. Chính vì thế mà bác và em gái bác hoàn toàn không biết tới sự hiện diện của cháu. Vài tháng sau, Phượng nhà bác cũng anh dũng hy sinh. Bác tuy bị thương nhưng đã may mắn thoát chết. Việc bác có thể làm duy nhất là đưa cả Phượng và Chanh về Nghĩa trang liệt sĩ của Thành phố Thanh Hóa. Còn bố cháu, bằng linh cảm của bác và những tình cảm mẹ cháu giành cho ông ấy, chắc chắn bố cháu là một người tốt, một người lính can trường, dũng cảm. Nếu không nằm lại chiến trường, nhất định ông ấy đang ở trại thương binh nào đó. Bác tin có ngày cháu sẽ được gặp lại bố thôi.

Theo ông Nghĩa, mỗi cuộc gặp gỡ trên đời này đều là một cơ duyên. Ví như tình bạn của ông và cô Phượng với mẹ tôi ngày trẻ. Rồi cũng thật tình cờ, trong Lễ kỷ niệm 50 chiến thắng Hàm Rồng, ông đã gặp lại mẹ tôi trong bức tranh của ông họa sĩ. Và rồi chúng tôi đã có cuộc gặp gỡ khá muộn màng này. Chỉ tiếc rằng, ông Nghĩa cũng chẳng có manh mối nào về cha tôi cả. Ở địa phương, cha tôi được liệt vào dạng mất tích. Giữa mẹ và cha cũng chưa từng đăng kí kết hôn, chưa từng tổ chức lễ cười nên vô hình chung, mối quan hệ giữa tôi với bên nội chẳng có giá trị pháp lý. Mặc dù vậy, tôi vẫn thường xuyên qua lại bên nội, được bên nội chiều chuộng, yêu thương mà không cần bất cứ một danh phận gì hết.

Dăm năm trước, tôi đã lặn lội vào thị trấn nhỏ hưu hắt ngày xưa để xây mộ cho bà lão bán nước, người mẹ thứ hai đã nuôi tôi từ những ngày còn trứng nước. Sau lần gặp lại ông Nghĩa, tôi đã đưa mẹ về quê cha, đất tổ với cái tên bà ngoại vẫn gọi ngày xưa: Vũ Thị Chanh. Dẫu là Chanh, hay Tâm, hay Tầm như ông họa sĩ già đã gọi, mẹ tôi vẫn là hoa khôi của Tổng đội thanh niên xung phong nơi tuyến lửa mà nhiều đồng đội vẫn nhắc nhớ, yêu thương. Sự can trường, dũng cảm của mẹ khiến đồng đội cảm phục. Hơn tất thảy, minh chứng cho lòng thủy chung son sắt của mẹ tôi với cha tôi chính là sự hiện diện của tôi trên cõi đời này.

Bây giờ, trong căn phòng khách bé nhỏ của gia đình tôi, bức tranh Người đàn bà bên cầu Hàm Rồng đã được treo trang trọng. Mỗi lần ngước nhìn lên bức tranh thân thuộc đó, tôi lại thì thầm: Mẹ ơi, con luôn tự hào về bố mẹ. Nhất định con sẽ tìm được bố, nhất định là thế, mẹ ạ.

   QUỲNH VÂN

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *