Vanvn- Tháng Giêng, năm Bính Thân 1416/ Trong thung nhỏ Lũng Nhai/ Trời trong xanh/ Ngào ngạt hoa rừng/ Nước sông Lương trong vắt/ Mười tám người tâm phúc về đây/ Đặt bàn dâng cỗ/ Thắp hương khấn thần linh trời đất/ Thề diệt giặc Ngô/ Mười tám người / Mười tám ngọn lửa/ Mười tám ngôi sao/ Mười tám cánh buồm/ Không cùng họ cùng tên/ Không cùng năm sinh tháng đẻ/ Không cùng cha mẹ/ Nhưng cùng chí hướng…

Chương 4: Bàn thề Lũng Nhai
Làng Như Áng
Xanh biếc thung My
Bốn bề rừng Lam bọc
Sông Lường soi gương sáng
Trùng điệp núi dựng gươm
Dưới nắng vàng như một đoá hoa sen
Lộng lẫy bày công múa
Dập dìu trĩ kết đôi
Hoẵng tác gọi bạn đời
Nai tìm cây đập gạc
Vượn hót chim ca
Vang làng Cham, làng Chủa
Trăn phơi mình tắm nắng
Hổ trắng bước oai linh
Hổ trắng như thần rừng
Ngài không bắt người ăn thịt
Bước chân ngài rất êm
Gầm lên khi làng mở hội
Bốn mùa ngợp màu hoa
Bốn mùa hương thơm ngát
Hương thơm mắt con trai
Hoa đẹp lời con gái
Mật ong đầy ống giang ống nứa
Vít nắp dựng quanh nhà
Lúa trĩu nương trĩu rẫy
Cá bơi đặc suối khe
Không kể hết cây lim cây lát
Cây dâu da, cây trám cây bùi
Trò chỉ vàng tâm chót vót chọc trời
Cây ngát cây ngơn mấy người ôm không xuể
Cây lớn dựng nhà sàn
Cầu thang lên chín bậc
Cây đục làm máng to
Tưng bừng đêm khua luống
Quả chín nhiều chim thú ăn không hết
Cỏ non mượt lòng thung
Mùa xuân hát sắc bùa
Đêm xường vang tình ca trai gái
Cồng chiêng rộn Mường Trời
Hội cù rung Mường Đất
Con cháu bà Dạ Dần
Thi nhau làm bánh ngọt
Thi nhau ủ rượu ngon
Con cháu Lang Cun Khương, Lang cun Cần
Thi làm nỏ tốt
Đang say tiếng hát tưng bừng
Bỗng mây đen đến bặt ngừng tiếng reo
Giặc thù ác quá hùm beo
Gươm đâm trăm ngõ, lửa thiêu trăm nhà
Máu xương chồng chất gần xa
Chỉ còn nước mắt chảy nhòa thung Lam
Núi đồi sôi sục hờn căm
Suối khe rên xiết thác gầm đau thương
Đầu rơi máu đỏ sông Lường
Chúng đem cái chết trăm đường bủa vây
Lửa than đổ xuống đất này
Muối xót vào ruột, ớt cay vào lòng
Giặc Minh bắt bớ, sục lùng
Cháu con ly tán, vợ chồng lìa xa
Chỉ còn có tiếng rên la
Chỉ còn nước mắt chảy nhoà nơi nơi
Lê Lợi hành đạo thay trời
Anh hùng tụ nghĩa, mười tám người về đây
Bàn thề đặt giữa thung mây
Cùng nhau cắt máu ngón tay ăn thề
Giờ thành tên ruộng Bàn Thề
Cháu con lần dấu tìm về Tổ Tiên
Nghe năm nghe tháng vọng lên
Từng lời xưa hiện tuổi tên anh hùng
*
Tháng Giêng, năm Bính Thân 1416
Trong thung nhỏ Lũng Nhai
Trời trong xanh
Ngào ngạt hoa rừng
Nước sông Lương trong vắt
Mười tám người tâm phúc về đây
Đặt bàn dâng cỗ
Thắp hương khấn thần linh trời đất
Thề diệt giặc Ngô
Mười tám người
Mười tám ngọn lửa
Mười tám ngôi sao
Mười tám cánh buồm
Không cùng họ cùng tên
Không cùng năm sinh tháng đẻ
Không cùng cha mẹ
Nhưng cùng chí hướng
Cùng nỗi căm hờn
Cùng một niềm tin
Nhập vào nhau làm một
Như mười tám con khe đổ về một suối
Mười tám con suối đổ về một sông
Mười tám dòng sông đổ về một biển
Thề cùng nhau làm nên biển lớn
Thề cùng nhau làm nên núi cao
Lời thề rằng:
“ Nam quốc Thanh Hoá Phủ, Khả Lam Lộ,
Phụ đạo Lê Lợi cùng Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận,
Lê Ngân, Lê Liễu, Trịnh Khả, Lê Sát, Đinh Lễ,
Lê Văn An, Nguyễn Lý, Trương Lôi, Lê Văn Linh,
Vũ Uy, Lê Hiểm, Trần Lựu, Lê Bồi, Trương Chiến
hiện diện mười tám người, Đinh Bồ, Lưu Nhân Chú,
Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Như Lãm đi côn vụ
chưa kịp về, tổng cộng 22 người kính dâng trầu, rượu,
hương đăng, sinh huyết và 22 trái tim thành kính tâu với :
“Hiệu thiên kim khuyết chí tôn Ngọc Hoàng bệ hạ!
Thừa thiên hiệu phán, hậu thổ hoàng kỳ Ngọc bệ hạ!
Sơn hà xã tắc thượng trung hạ đẳng chư vị tối linh Tôn thần!
Chúng tôi từ Lê Lợi, Lê Lai Đinh Liệt, Nguyễn Thận
đến Trương Chiến tuy không cùng họ tên quê quán, bốn
phương hội nghĩa, nguyện suốt đời kết thành nghĩa hữu,
kiên trung như chim liền cánh, như cây liền cành, đồng cam
cộng khổ vì sự nghiệp bình Ngô, không đội trời chung với
kẻ thù, quyết đưa sự nghiệp đến thắng lợi!
Cúi mong Trời- Đất- Thần linh chứng giám, phù hộ bản thân,
con cháu gia quyến được khoẻ mạnh, cùng hưởng lộc trời,
phúc đất. Kẻ nào dám cầu ơn hiện tại, núp bóng kẻ thù,
không đồng tâm hiệp lực, quên bỏ lời thề, nhụt chí phản trắc,
thì bị trời chu đất diệt, di hoạ lại cho cháu con ngàn năm
muôn thuở, theo luật thiên hình.
Chúng tôi tuyên thệ!
Cẩn cáo”.
Mười tám thanh gươm chĩa thẳng lên trời
Nhất loạt hô thề cùng kề vai sát cánh
Rừng âm vang chuyển rền sấm mạnh
Đất âm vang chớp giật lũ gầm
Rượu huyết nâng ly mười tám tay cầm
Cùng nâng lên ngang mày, cùng cạn
Rồi Lê Lợi bước lên
Thưa các chư huynh!
Từ trước đến nay chúng ta là bầu bạn
Trong đời thường chúng ta gọi anh em
Trong trang ấp chúng ta là chủ tớ
Trong gia tộc chúng ta là chi tôn thúc bá
Có chén rượu ngon chúng ta gọi mời nhau
Có việc mời nhau điếu thuốc, miếng trầu
Có nắm xôi chúng ta cùng chia sẻ
Có thể dưới trên không phân thứ bậc
Như cha con, như huynh đệ một nhà
Người dưới dạ người trên, người trẻ dạ người già
Nhưng đã thề làm đại sự quốc gia
Không tránh khỏi phải phân chia ngôi thứ
Không phải chỉ mười tám người hôm nay uống máu
Rồi sẽ có thêm lớp lớp tầng tầng
Từ cách xưng hô đến thưởng phạt trong quân
Lê Lợi sợ rằng giọt máu tổn thương
Tình huynh đệ sẽ vô vàn tội lỗi »…
Trương Chiến thưa:
« Điều đó không tránh khỏi
Nhưng nay đà phân biệt tính danh
Những ngày thường tình chư đệ chư huynh
Nay trước Bàn thề Người đã thành Chủ soái
Việc nhỏ việc to mỗi lời Người nói
Đã là lời của bậc tối cao
Dù tình cha con bè bạn thâm giao
Tất cả bề tôi phải đều tuân lệnh ».
Lê Văn Linh thưa : « Mọi điều phải tính
Vua có việc vua, quân có việc quân
Từ quan đến dân mỗi người một bậc
Đâu phải chỉ những ngày đánh giặc
Mà cả khi đất nước thanh bình
Dẫu là vua cũng có gia đình
Dẫu là dân cũng có bang giao muôn mối
Muốn trách phạt phải biết lầm biết lỗi
Muốn phong quan phải biết có công
Căn cứ vào đâu để phân biệt đục trong
Căn cứ vào đâu để tìm ra phải trái
Không phải tức giận thì hoá thành trọng tội
Không phải yêu thì công trạng lớn lên
Người lắm mưu mô thì được tuổi được tên
Người thật thà thì không được tấn phong cất nhấc
Tất cả mọi người cùng phải làm theo phép tắc
Ta phải định ra trên giấy trắng mực đen
Không phân sang hèn huynh đệ thân quen
Dõi vào đấy mà điều hành đất nước
Có như thế mới vẹn toàn sau trước
Mới vững lòng tin bình đẳng muôn dân
Luật lệ là công lý cán cân
Không ai sợ cửa quyền, thiên vị »
Đinh Liệt, Lê Lai, Đinh Lễ, Lên Văn An,
Trương Lôi, Nguyễn Lý
Mỗi người một câu đóng góp lời bàn
Khởi nghĩa nổ ra có trăm vạn việc cần
Bao nhiêu luật lệ chúng ta phải định
Luật giữ kỷ cương, luật phong tướng lĩnh
Luật quân lương, luật thưởng đất đai
Luật của hôm nay, luật của ngày mai
Một mình Chúa Công không nghĩ tròn vẹn được
Đây là buổi sơ khai lo bàn cứu nước
Người phải lập ra một Bộ cơ mưu
Phải chọn cho mình được những quân sư
Như Chu Du giúp Tôn Quyền, Khổng Minh phò Lưu Bị
Người nào giỏi tinh thông đường thuỷ
Thì giao cho thống lĩnh thuỷ quân
Người nào tinh thông đồng bằng địa hình địa vật núi non
Thì giao cho thống lĩnh nghĩa quân trên bộ
Người nào giỏi tinh thông voi ngựa
Thì giao cho thống lĩnh kỵ binh
Trên bộ dưới thuyền cung kiếm phải tinh
Có như thế mới mưu thành nghiệp lớn! »
Lê Lợi mừng như lòng mình toả nắng
Hình dung ra tướng mạnh binh hùng
Ánh mắt tường đáy bể lạch sông
Chưa dựng cờ mà lòng bay phấp phới.
Chim phượng, chim công lượn về rợp suối
Từng đôi say sưa nhảy múa dưới rừng cây
Chồn sóc quây quần cùng vượn khỉ hươu nai
Chim hót chim ca tưng bừng náo nhiệt
Hổ trắng đến quỳ trước anh hùng hào kiệt
Rồi gầm lên vang động cả rừng cây
Máu thiêng cùng uống Lũng Nhai
Đất trời chứng giám không sai Bàn Thề
Chương 5 : Cờ nghĩa
Ngày Canh Thân, tháng Giêng, năm Mậu Tuất
(Tức là ngày mùng 2, tháng Giêng năm 1418)
Trong cánh rừng Khả Lam cờ nghĩa đã dựng lên
Lá cờ nghĩa mang tên Bình Định Vương Lê Lợi
Rực rỡ tung bay trước nắng xuân vời vợi
Ngào ngạt thơm trăm thứ hoa rừng
Rừng hiên ngang tấm ngực lớn của mình
Lồng lộng tung bay lá cờ ngũ sắc
Sau bao nhiêu năm dân mình tối tăm ngột ngạt
Như con lươn con chạch trong tro
Như con cá trong bùn
Nay tìm về lá cờ để thở
Tìm về lá cờ để được ngẩng cao đầu
Lá cờ là khoảng trời tự do độc lập đầu tiên
Vui như tìm thấy ruộng nương
Vui như tìm thấy gia đình đoàn tụ
Lòng reo ca hạnh phúc
Trăm họ tung hô Bình Định Vương vạn tuế
Tướng sĩ tung hô Bình Định Vương vạn tuế
Lá cờ như đỉnh Pù Dinh hút gió
Như Lường Giang, Lỗi Giang hút nước
Hảo hán muôn nơi ngưỡng mộ tìm về
Người trượng nghĩa muôn phương hướng tới
Người có ngựa tặng ngựa
Người có trâu tặng trâu
Người có lợn tặng lợn
Người có gà tặng gà
Người có gạo tặng gạo
Người có vải tặng vải
Người có sắt góp sắt
Người có thép góp thép
Người góp vàng góp vàng
Người có bạc góp bạc
Người có nỏ góp nỏ
Người có tên góp tên
Người góp rìu góp rựa
Lũ lượt
Lũ lượt
Làng thấp
Mường cao
Luồn rừng tới
Băng đèo tới
Vượt sông tới
Xuyên vòng vây tới
Người nói tiếng Kinh
Người nói tiếng Mường tiếng Mán
Người nói tiếng Tày tiếng Thổ
Người nói tiếng Thái tiếng Dao
Người nói tiếng Mèo, tiếng Rợ
Âm vang giọng nói của trăm miền
Đất thiêng đón được người hiền
Vòng tay muôn nẻo nối liền vòng tay
Chim hồng thêm mạnh cánh bay
Rồng thêm móng vuốt xuyên mây xé mù
Gió thêm sức gió phất cờ
Lửa mơ góp lửa, dầu mơ góp dầu
Rừng thành chiến luỹ chiến hào
Đường xuôi đường ngược đường vào đường ra
Rừng thành địa võng thiên la
Chỗ là cửa tử chỗ là cửa sinh
Rừng thành bốt gác chòi canh
Cỏ cây hoa lá biến thành cung tên
Rừng thành xưởng đúc xưởng rèn
Tiếng đe tiếng búa vang rền núi non
Thành nơi luyện tướng luyện quân
Rừng Lam mở hội vào xuân tưng bừng
Lắng trong giọt nắng giọt sương
Có hồn sông núi muôn phương nhập về
Lá cờ cháy bỏng lời thề
Đứng lên phá ách tái tê bao ngày
Rợp trời cờ xí tung bay
Muôn phương nhập một rừng cây điệp trùng
Ngực quân ngực núi kiên trung
Đầu tên mũi giáo vẫn không chuyển rời
Lòng như lộc biếc đâm chồi
Đất dôi sức đất, rừng dôi sức rừng
Giờ lạt bện chắc thêm thừng
Giờ muối thêm mặn, giờ gừng thêm cay
Muôn số phận dưới cờ này
Chung khi giông tố, chung ngày bão tan
Còn một chiếc lá rừng Lam
Còn lá cờ nghĩa thì còn mai sau
Trăm lời đọng lại một câu
Đánh tan lũ giặc, sáng bầu trời xanh
Muôn dân được sống thái bình
Muôn nơi trái ngọt quả lành đơm hương
Nhiễu điều mãi phủ giá gương
Bí bầu mãi nặng tình thương một giàn
Biển đem tình vỗ lên ngàn
Núi rừng trao biển muôn vàn sắc hoa
Nước non Đại Việt mở ra
Một trang sử mới bao la chân trời
Dưới cờ là sức vạn người
Bình Định Vương hóa mặt trời ban mai
*
Một ngày mới sang trang
Mạch đất rung nghìn vạn tiếng hô vang
Chiến thắng! Chiến thắng!
Quân Lam sơn chiến thắng!
Quân Lam sơn chiến thắng!
Trên mình voi Lê Lợi phất cờ
Tả hữu giáo gươm hô thề dậy đất
Lê Khang, Lê Nanh, Lê Luân, Lê Lễ, Lê Sao
Lê Nhữ Trì, Lê Cố, Lê Hiên, Lê Xá Lôi, Lê Lộng,
Trịnh Lỗi, Trịnh Hối, Lê Thỏ, Lê Bồi
Lê Lãng, Lê Khắc Phục, Lê Vấn, Lê Lan, Lê Định
Lê Cuống, Lê Trình, Lê Khiêm, Lê Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm
Lê Văn Giao,Trần Vận, Lê Cảnh Thọ, Trần Xương
Phạm Quỳ, Trương Lôi, Lê Sát, Trịnh Khả, Phạm Lung
Lê Khả Lãng, Lê Liễu, Lê Nhữ Lẫm, Bùi Quốc Hưng, Lê Nỗ
Trần Hốt, Vũ Oai, Trịnh Vò, Lưu Hoạn, Nguyễn Thận,
Lê Văn An, Đỗ Bí, Lê Văn Linh…
Năm mươi tướng võ
Năm mươi tướng văn tề chỉnh oai nghiêm
Phía trước bộ binh
Phía sau kỵ mã
Các thiết đội uy nghi
San sát bên nhau cờ xí rợp trời
Cồng chiêng chuyển rền sông núi
Ngày xuân mới thiêng liêng
Mở sử thơm muôn thuở
Những choé rượu cần làng Cham, làng Chủa
Những choé rượu cần làng Như Áng, Thụ Mệnh,
Hướng Dương, Dao Xá, Đức Trai
Cùng những choé rượu cần Bỉ Ngũ, Nguyễn Xá,
Dựng Tú, Sơn Lạc, Mật Việt, Lũng Nhai
Thơm trong tiếng tù và vang dội
Rừng lồng lộng bóng Bình định Vương Lê Lợi
Giọng Người như sấm rền:
Hỡi tướng sĩ ba quân
Cờ nghĩa đã phất lên
Lá cờ này không bao giờ hạ xuống
Chỉ có một con đường chiến thắng
Chỉ có một con đường phía trước tiến công
Giết sạch giặc Minh giải phóng non sông
Dù có phải hy sinh tất cả máu xương
Chúng ta thề cùng nhau xốc tới!
Lá cờ đã tung bay từ bao đêm mất ngủ
Bao nhiêu mái đầu đã chụm vào nhau
Cắt máu ăn thề bí mật ở thung sâu
Vạt áo nhỏ giấu từng ánh lửa
E ấp sợ bọn diều hâu cú vọ
Sợ những cơn gió độc thổi vào
Chí lớn vừa nhen trong máu nóng cồn cào
Giấu những ngọn núi đang mọc trong lồng ngực
Giấu trái tim đang đập những con sóng lớn
Giấu những mái đầu góp nhiều câu hỏi
Lá cờ bay lên từ giây phút sợ bầy dơi ăn đêm
Sợ một người lạ mặt
Nhận ra ta đem những ngọn lửa trong lòng
Đi gặp những ngọn lửa để thành biển lửa!
Nhận ra ta mang những con thác
Đi gặp những con thác để thành muôn ngọn thác
Quét sạch kẻ thù khỏi giang sơn Đại Vịêt
Vùi chúng xuống bùn đen
Thịt da chúng tan rữa cùng sự ngông cuồng ác độc
*
Bên kia bờ Lỗi Giang
Thành Tây Đô mấy vạn quân Phương Chính
Luôn ném cái nhìn chết chóc về phía chúng ta
Luôn nghe bằng những cái tai đấy chết chóc về phía chúng ta
Phân tích màu nước sông Lỗi Giang, Lường Giang
từng ngày từ thượng lưu chảy xuống
Nhận ra rừng đang đổi thay qua màu nước bất thường
Rừng đang đổi thay qua dòng nước trôi về có nhiều vật lạ
Chúng lắng nghe từng tiếng lá rừng rơi
Chúng nghi ngờ từng người mò tôm đãi hến
Con đò nào mới đi
Con đò nào mới đến
Khách sang sông là trẻ hay già
Chúng xét từng ngón chân ngón tay xem có phải
canh mục ngư tiều
Hay đấy là anh hùng, kẻ sĩ
Chúng đã cảm nhận một cơn bão lớn
Đang ập xuống đầu
Từ những tiếng ve kêu cháy bỏng mùa hè
Từ những chiéc rễ si bật trắng
Từ những đàn kiến tha trứng ngược lên cao
Từ những đàn ong tìm bụi cây um tùm làm tổ
Lòng hờn căm đang âm thầm cuộn chảy
Đang âm thầm hợp lưu
Thành trùng trùng sóng dựng
Thành đại thuỷ đại phong
Sự ác độc từ tim óc chúng chảy ra
Đã thấm vào bao nhiêu mạch đất
Nên chúng không nghe được tiếng gọi trả thù
Từ phía nào quê hương ta bật dậy
Lá cờ này là tiếng thét đứng lên của một miền đất ấy
Miền đất bao năm trong miệng ngậm bồ hòn
Ngực nén những cơn đau
Không vỡ được biến thành vực thẳm
Không vỡ được biến thành đá nhọn
Không vỡ được biến thành gươm giáo
Vai kề vai sát cánh tiến lên
Quyết giành lại giang sơn Đại Việt
Sự ác độc của chúng làm sao hiểu được
Cỏ cây vẫn đọc hịch những nỗi niềm khuya khoắt
Hịch đã vang trong chiếc dây thừng chúng bắt phu phen
Hịch đã vang trên những nét chữ bị thích vào mặt tội đồ nô lệ
Quy tụ về đây thành lá cờ này
Với dòng chữ Bình Định Vương Lê Lợi
Đọc cho lũ giặc Minh nghe tên tuổi của mình
Đọc cho lũ giặc Minh nghe gia phả của mình
Đọc cho lũ giặc Minh nghe niềm kiêu hãnh của đất nước này
“ Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ”!
*
Cờ nghĩa này ta phất cao lên
Để nối chí Bà Trưng, Bà triệu
Không phải chỉ để giết một tên Thái thú
Mà quyết tâm nhổ sạch giặc Ngô
Cờ nghĩa này ta phất cao lên
Để sống dậy tinh thần Lý Bí
Tự lực, tự cường quét sạch quân Nam Hán
Ngẩng cao đầu dựng nước Vạn Xuân
Cờ nghĩa này là ý chí của nghĩa quân
Là khát vọng độc lập tự do của nhân dân trăm họ
Hãy nhân lên mỗi cành cây ngọn cỏ
Mỗi cánh rừng, con suối con khe
Mỗi bản làng, mỗi cây nứa cây tre
Đều rực rỡ cờ xí bay phấp phới
Từ Lũng Nhai này tỏa đi trăm lối
Tiếng voi gầm rung núi
Tiếng ngựa hý vang thung
Tiếng quân đi như sóng trập trùng
Cờ rợp trời đại quân hùng mạnh
Ta sẽ giải phóng Mường Ca Da, Mường Bi, Mường Ảng,
Mường Sì Dồ, Mường Vó, Mường Vang
Giải phóng châu Hoan, châu Diễn, châu Trường
châu Lục, châu Giao, châu Ái
Tiến vào phía nam giải phóng miền kỳ Lân, Thuận Hóa
Đại quân ta sẽ tiến lên phía Bắc giả phóng
châu Lạng, châu Giang
Sẽ giải phóng Cao Bằng, Điện Biên, Sơn La, châu Mộc
Đánh đuổi kẻ thù ra khỏi Lâm Tây, Quan Hóa, An Nam
Phải lấy lại tên nước ta: Đại Việt!
Dưới cờ Đại nghĩa
Ai cũng là anh hùng, hào kiệt
Hãy xin thề tận hiến, tận trung
Với hồn thiêng sông núi tổ tông
Nghĩa quân Lam Sơn viết Bình Ngô đại cáo.
NGUYỄN MINH KHIÊM