Vanvn- Nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm ở Thanh Hóa, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, là cây bút đang sung mãn, liên tục trình làng các tập thơ thời gian gần đây. Một trong những tác phẩm gây ấn tượng của Nguyễn Minh Khiêm là trường ca Lê Lợi mài gươm, Nxb Hội Nhà văn 2020. Đây là trường ca thứ tư sau Bầu trời màu hoa gạo (2015), Ba mươi tháng Tư (2017), Hát nơi cửa sóng (2018) của ông. Bằng tình yêu quê hương, nguồn cội và kiến thức lịch sử, văn hóa phong phú được thẩm thấu qua lăng kính của một thi sĩ tài năng, Nguyễn Minh Khiêm đã thành công khi dựng nên trường ca mang tính sử thi Lê Lợi mài gươm gồm 5 chương, mà từng câu chữ như nghe sống lại, âm vang tiếng vó ngựa, gươm khua và cả trí tuệ, hào khí của tổ tiên trong cuộc khởi nghĩa ở đất Lam Sơn do anh hùng Lê Lợi đứng đầu chống quân xâm lược nhà Minh giải phóng đất nước. Nhân Ngày Thơ Việt Nam, xin trân trọng giới thiệu trường ca Lê Lợi mài gươm của thi sĩ xứ Thanh. (PH)
Chương I: Sấm động rừng Lam
1.
Lại một người đàn ông nữa bị cung hình
Một người nữa bị đem ra mổ bụng
Một đứa trẻ bị ném vào chuồng cọp
Một phụ nữ bị bắt làm trò ô nhục
Một quan nhà Hồ bị ngựa kéo lê thây
Một nhà sư bị đốt chẳng ghê tay
Một nhà nho bị lôi ra xử chảm!
Tên Trương Phụ cứ ngày ngày cuồng lệnh
Không để sót một tấm bia nào người Việt dựng lên
Đập!
Và đập!
Không để sót một chữ nào ghi lịch sử, văn chương
Không để sót dòng nào ghi thuần phong mỹ tục
Không để sót một đình chùa miếu mạo
Còn một chữ cũng đập cho tan
Dù một chữ cũng không để sót!
Vùng quê nào còn dân ca dân vũ
Vùng quê nào còn thờ cúng Hùng Vương
Vùng quê nào còn lưu truyền ca dao tục ngữ
Vùng quê nào còng kể chuyện Sơn Tinh,
Thuỷ Tinh, Thánh Gióng
Hãy cho quân triệt hạ
Dù vùng thấp vùng cao
Kinh thành hay xóm bản
Phá thuyền không để ván
Đốt diều không để dây
Đổ trầu không để khay
Nhổ cỏ không để rễ!
Tám mươi vạn quân Minh phủ bóng mây đen
Treo cái chết trước từng cổng ngõ
Cái chết đến bằng lũ khát máu hai chân
Cái chết đến bằng mũi gươm, mũi giáo
Cái chết đến từ dây thừng dây chão
Cái chết đến từ cái ô, cái mũ
Chúng thèm khát đất đai
Thèm bạc vàng châu báu
Ngẩng đầu lên chỉ thấy mây đen
Mây đen ùa vào từng cánh cửa
Phủ lên từng ánh mắt
Phủ lên trên giọng nói tiếng cười
Phủ con đường xuống sông gánh nước
Phủ con đường gánh ban mai ra chợ
Phủ gốc đa ngày hội đêm rằm
Không nhà ai còn dám đốt đèn
Không xóm thôn nào còn ê a tiếng hát
Chúng bắt ăn mặc giống người bắc quốc
Bắt học nói học ca giống người bắc quốc
Bắt thờ cúng lễ nghi giống người bắc quốc
Đất nước úp mặt vào nỗi đau
Úp mặt vào nước mắt
Nước mắt cuốn nhau xuống biển mò ngọc trai
Nước mắt cuốn nhau lên rừng tìm ngà voi, nanh hổ
Nước mắt cuốn nhau vào nơi thâm sơn cùng cốc đào vàng
Đào thấy hài cốt của ông cha
Đào thấy nền văn minh văn hiến
Đào thấy gia phả thần phả
Mồ hôi ướt đầm đìa
Lau mồ hôi đỏ ngầu màu máu
Máu hắt lên bốn phía mây đen!
Ôi mây đen!
Mây đen!
Mây như hắc ín phủ miền quê ta
Sông Lường còn chở phù sa
Sóng hay là tiếng kêu la hận thù
Trẻ còn nghe tiếng mẹ ru
Hay roi vọt quất mịt mù đau thương
Đất còn cây trái đơm hương
Lúa ngô còn rẫy còn nương gieo trồng
Giặc lia mắt quạ trăm vùng
Trẻ già như cá nằm trong lưới chài
Thức khuya không hết đêm dài
Ngày mai, chẳng biết ngày mai là gì!
Một màu mây nặng như chì
Cứ đè vào ngực, cứ ghì vào tim
Bỗng đâu bảy nổi ba chìm
Thịt da nghìn vạn mũi kim chích vào
Biển đang gọi biển thét gào
Núi đang gọi núi chất cao căm hờn
Tiếng chim gọi đắng bồ hòn
Lạch khe mỏm đá gọi hồn đất đai
Lá rơi hú gọi hồn cây
Giọt sương hú gọi trời đầy trăng sao
Nỗi buồn hú gọi tìm nhau
Góp thành gió bão lật nhào tối tăm
Nén trong lồng ngực nghìn năm
Nén trong lồng ngực hờn căm bạo tàn
Bật tung chớp bể mưa ngàn
Bật tung xiềng xích đập tan giặc thù
Xé cho sạch bóng mây mù
Đất quê lại ấm tiếng ru ngọt ngào
Ta đi lại ngẩng cao đầu
Nước non Đại Việt lại màu lửa thiêng.
2.
Bao nhiêu đêm
Lê Lợi không chợp mắt
Lòng như than lửa
Nằm trên chông gai
Nuốt cơm sỏi cát
Uống nước như uống tóc
Lang thang trong rừng
Lang thang khe suối
Người xoè tay dưới tán lá cây rừng
Ngạt ngào quá mùi hương tràm hương quế
Ngạt ngào quá mùi hoa lan hoa dẻ
Rực rỡ bông trang, rực rỡ mai vàng
Có gì đẹp hơn thế nữa hỡi rừng Lam?
Rừng cho ta ngất ngây mùi cây trái
Mùa quả chín gọi tay người về hái
Mùa mật thơm gọi bướm gọi ong
Cỏ non xanh gọi chim trĩ, chim công
Sung vả dâu da gọi chồn gọi khỉ
Bóng cây gọi nhọc nhằn đến nghỉ
Gọi gái trai Mường múa hát mê say
Gọi những quả còn tình yêu bỏng trong tay
Âm vang cồng chiêng, âm vang khèn sáo
Cây trẩu cây trầm cho dầu ngồi dệt áo
Cây lau cây bông cho ruột gối ruột chăn
Cây quạch cây chay cho đỏ miếng trầu xuân
Cái rẫy cái nương cho no cho ấm
Khe suối trong cho ngọc ngà xuống tắm
Cho men lên ngây ngất choé rượu cần
Lim sến cho kang, cho cột nhà sàn
Nhà sàn là trái tim rừng núi
Trái tim đập lời mai lời mối
Trái tim đập lời ạu, lời mo
Truyền lại cháu con chuyện nghìn vạn năm qua
Chuyện đẻ ra trời, chuyện sinh ra đất
Chuyện quỷ chuyện ma chuyện thần chuyện phật
Chuyện cây sinh lửa, chuyện đá làm đàn
Bàn chân bàn tay sinh ra tục ngữ
Que củi hòn than sinh ra cái chữ
Cái rìu cái rựa sinh nở ca dao
Nhưng bây giờ nghìn vạn nỗi đau
Đang chĩa vào trái tim rừng núi!
Mỗi nhịp đập buốt muôn vàn câu hỏi
Hỏi con đường sẽ dẫn về đâu
Hỏi sách Lam Sơn có khác Cổ Lâu?
Phải làm gì đây
Người tự hỏi mình
Nhiều cung tên treo trên vách để làm gì
Nhiều giáo mác dựng trên sàn để làm gì
Đọc Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Khổng Tử để làm gì
Thuộc Kinh thi, Kinh thư để làm gì
Đọc binh pháp Khổng Minh, Tôn Tử để làm gì
Bao nhiêu năm luyện đao kiếm để làm gì
Tập võ nghệ để làm gì
Sôi kinh nấu sử để làm gì
Thành Thăng Long đã mất
Thành Hồ Quý Ly đen dày bóng giặc
Sông Lỗi Giang không còn là nơi ta bơi thuyền câu cá
Mũi giáo giặc Minh đang chĩa vào cửa buồng nhà ta
Vó ngựa giặc Minh đang giậm bên cánh mũi của ta
Ta nghe thấy sự đổ vỡ
Ta nghe thấy mùi máu phả vào cửa man, cửa voóng
Ta nghe thấy mùi máu phả vào chỗ đàn bà con gái nhà ta
ngồi quay tơ dệt cửi
Cây lim, cây sến đang hỏi ta
Mỗi chiếc lá là một con mắt đang nhìn ta
Hòn cuội đang hỏi ta
Con ong con bướm đang hỏi ta
Chí khí Bà Trưng đâu
Chí khí Bà Triệu đâu
Chí khí Đinh Tiên Hoàng đâu
Chí khí Lê Hoàn đâu
Đâu những trang sử chói ngời Lý Thường Kiệt
đánh tan giặc Tống
Đâu những trang sử anh hùng ba lần Trần Hưng Đạo
đánh tan giặc Mông Nguyên
Một triều Trần chỉ còn tro bụi
Một triều Hồ chỉ còn chợ vỡ
Vua một nước bỗng hoá tù binh
Dân một nước bỗng biến thành trâu ngựa
Đêm vọng lên những khúc chiêu hồn
Ngày phủ màu khăn tang
Nhiễu điều giá gương không giữ được bài vị nhà mình
Bầu bí vắt vào nhau nẫu úa trên giàn
Cua ốc ôm nhau rục mòn trong lỗ
Chim gục dưới cung tên trước khi về đến tổ
Cá tôm sục bùn chài lưới bủa vây
Con gà bị trói còn biết kêu lên
Con ong bị phá tổ còn biết xông tìm kẻ thù để đốt
Con hổ, con gấu bị tên bị đạn còn biết gầm lên
Chẳng lẽ ta câm, ta điếc, ta mù
Bọn giặc Minh muốn ta phải câm
Bọn giặc Minh muốn ta phải điếc
Bọn giặc Minh muốn ta phải mù
Chúng muốn ta chỉ biết lăn lóc như củ khoai củ sắn
Đất nước ta như mảnh lụa, mảnh tơ
Giặc phương bắc như lưỡi dao, lưỡi kéo
Thời nhà Tùy chúng chia thành các quận Tỷ Ánh, Nhật Nam,
Tượng Lâm, Giao Chỉ, Hải Âm, Ninh Việt, Cử Chân
Thời nhà Đường, chúng lại chia nước ta thành châu Chi,
châu Thang, châu Giao, châu Trường, châu Lục
châu Diễn, châu Hoan, châu Ái, châu Phong
Chẳng lẽ ta ngồi gặm nhấm nỗi đau
Cơ nghiệp nghìn năm nhặt về đổ vỡ
Chít khăn tang cho bờ cõi biên cương
Chít khăn tang cho con Rồng cháu Lạc
Chít khăn tang cho niềm kiêu hãnh Văn Lang
Chít khăn tang cho nước Vạn Xuân
Làm văn tế chiêu hồn Mê Linh
Làm văn tế chiêu hồn Thăng Long
Khắc trong tim hai chữ hận thù
Ngày bắt đầu bằng bình minh của máu
Và khép lại bằng hoàng hôn của máu
Đất nước hắt ra tiếng thở dài giông bão
Giông bão cuộn vào trong những nắm tay
Giông bão cuộn vào vành môi khoé mắt
Giông bão hiện hình trên những con dao dắt sau cửa liếp
Giông bão hiện trong cái hái cái liềm
Cọng rơm ẩn hình những ngọn lửa bùng lên
Cây nứa cây tre ẩn hình mũi tên mũi mác
Giọt sương khuya ẩn hình ngọn thác
Đêm chuyển rung sấm động phía chân trời

Chương 2 : Lê Lợi mài gươm
1.
Có thày địa lý bảo
Đất này là đất phát vương
Lê Lợi hỏi lại
Thế đất nào là đất làm nô lệ?
Thử tính xem từ thuở vua Hùng
Có miền đất nào không có người tài, người giỏi
Nguyễn Tuấn ở Ba Vì
Bà Trưng ở Phong Châu
Bà Triệu ở Quan Yên
Đinh Bộ Lĩnh Hoa Lư
Lê Hoàn quê Xuân Lập
Nhà Lý ở Bắc Ninh
Nhà Trần vùng Châu Thổ
Có nơi nào quê cha Đất Tổ
Không sáng lên những bậc anh hùng ?
Chẳng lẽ huyệt đất Mông Cổ phải ngồi trên lưng ngựa
Phải đeo cung tên gieo chết chóc quê người
Chẳng lẽ cả Trung Nguyên là một huyệt đất xâm lăng
Là huyệt đất cắn xé nhau hết thời Xuân Thu
đến thời Tam Quốc
Một huyệt đất nồi da nấu thịt?
Huyệt đất Đại Việt là làm kiếp trâu kiếp ngựa?
Hãy nhìn xem sông núi của ta
Núi Nghĩa Lĩnh linh thiêng
Núi Tản Viên hùng vĩ
Sông cái Nhị Hà cuồn cuộn nghìn năm
Thành Thăng Long tinh hoa văn vật
Văn Miếu rạng danh trăm bia tiến sĩ
Vùng đất nào cũng có trạng nguyên
Vùng đất nào cũng thám hoa, bảng nhãn
Nhưng bây giờ chỉ là nước mắt!
Đêm trũng sâu hơn trong những tiếng thở dài
Còn ai đốt lửa để thổi khèn, thổi sáo
Ai kéo sợi quay tơ dệt áo
Ai hái măng bóc quế trồng dâu
Ai nuôi tằm dệt vải
Người Tày, người Nùng có còn được tự do gảy
đàn tính, hát then
Người Thái có còn được tự do cồng chiêng,
thổi khèn, khua luống
Người Mường có còn được tự do hát xường diễn xướng,
hát mo
kể Đẻ đất đẻ nước, hát tình ca tình yêu trai gái
Người Kinh có còn được tự do đi hội Gióng, hội Lim
Có còn được tự do đi hội chùa Hương đi hội chùa Thầy
Cầu quốc thái dân an, cầu tài cầu lộc
Đến giun dế cũng không còn sống nổi
Con chim con cò phải bỏ tổ, lìa cây
Làm gì còn đất hổ phục rồng bay
Giặc hà hiếp dân thê lương đau khổ
Đất nước như con thuyền bị vỡ
Máu đã thành sông nghìn vạn đầu rơi
Đất trăm họ đều tang thương điêu đứng
Sao đất nhà ta lại là đất phát vương phát tướng?
Đất muôn dân bách tính nô tì?
Hãy nhìn xem
Nước mắt người Kinh có khác nước mắt người Mường
Nỗi đau người Dao có khác nỗi đau người Thái
Hãy lắng nghe tiếng thét trẻ con bị quăng vào lửa
Tiếng thét trẻ con bị ném ra đường cái
Những đứa trẻ không còn sữa bú
Những đứa trẻ không tìm được cha được mẹ
Những đứa trẻ không nhà cửa lang thang
Có tiếng khóc nào vui
Tất cả đều buốt như lách nứa khứa vào gan ruột
Tất cả đều bỏng rát như đổ ớt vào họng
Xót như đổ muối vào chỗ thịt da chảy máu
Đó là những đứa trẻ con cháu của Lang Cun Khương,
Lang Cun Cần được sinh ra từ Đẻ Đất Đẻ Nước
Những đứa sẽ lớn lên đi chặt cây chu đá lá chu đồng
Để làm nhà dài nhà rộng
Để mở mường trời, để xây mường đất
Những đứa trẻ sẽ lớn lên quật đổ con beo con báo
Đó là những đứa trẻ được sinh ra từ bọc trứng Âu Cơ
Lớn lên thành năm mươi người con theo cha xuống biển
Lớn lên thành năm mươi người con theo mẹ lên rừng
Mặc áo khóm thì gọi người Mường
Mặc áo dài thì gọi người Kinh
Chít khăn piêu thì gọi là người Thái
Quấn vải bó chân thì gọi là người Mán
Quấn khăn trên đầu tính tuổi thì gọi người Dao
Đeo nhiều vòng bạc, cúc bạc thì gọi người Mèo
Mặc áo tràm thì gọi là người Tày, người Dáy
Mỗi dân tộc nói một thứ tiếng khác nhau
Như cây rừng khác màu hoa màu quả
Cứ tỏa thơm hương sắc riêng mình
Nhưng tất cả chung một khu rừng lớn
Che chở cho nhau, đùm bọc lẫn nhau
Càng bão lớn càng thêm vững chãi
Các dân tộc Đại Việt này cũng vậy
Người ở đồng bằng, người ở núi cao
Biết chia lửa sưởi ấm cho nhau
Sống thì giết thú ác, giết kẻ xấu giữ đất giữ Mường
Chết linh thiêng thành thần sông thần núi
Nơi lập miếu thờ gọi cô Ba cô Chín
Nơi gọi Thánh Mẫu, Chúa Thượng Ngàn
Nơi gọi là Liễu Hạnh
Nơi gọi là Thiên Thần, Sơn Thần, Thổ Thần,
Thổ Công, Hà Bá
Có đứa trẻ tên gọi là Thánh Gióng
Nhổ tre làng quật lũ giặc Ân
Tre đằng ngà màu lửa ngựa phun
Mắc võng vào tre nghe linh khí đất đai
Như than lửa nghìn năm hừng hực cháy
Ngậm đũa vào miệng nghe vọng lời non nước
Yêu nước thì tự lớn lên thành tráng sĩ
Quyết tâm tiêu diệt giặc thì sẽ có ngựa sắt, giáp sắt
Lửa giữ hồn thiêng không bao giờ tắt
Đó là lời hịch của tinh thần hiên ngang bất khuất
Để lại câu uống nước nhớ nguồn
Đất nước sinh ra đứa bé ấy là ta
Cùng trẻ sách Khả Lam trần truồng tắm nước
sông Lường
Kết bè kết mảng xuôi dòng Lỗi Giang
Kết bè kết mảng xuôi dọc sông Bần
Thả lưới thả chài sông Chuỳ, sông Hép
Luyện đất làm khuôn đúc chuông đúc khánh
Đục cây dổi, cây kiêng làm cối làm chày
Làm máng hình thuyền đêm trăng khua luống
Cất lên tiếng dô huầy dô khoan vượt ngầm vượt thác
Mùa mưa vào rừng hái măng, hái nấm
Mùa thu đi nhặt trám nhặt bùi
Lúc sinh ra cũng được tắm nước lá rừng chống con vắt
con muỗi, bọ ve
Nắm nhau cùng được chôn dưới đất rừng
Mỗi bận ốm đau cùng được thày mo làm vía
Khi con hổ, con báo vào bản bắt lợn, bắt chó
Đứa trẻ ấy cũng biết cầm gậy, cầm lửa hô hét đuổi tận rừng sâu
Đứa trẻ ấy đang lắng nghe tiếng voi Bà Trưng ra trận
Đứa trẻ ấy đang lắng nghe từng lời Bà Triệu:
“ Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp sóng dữ, chém cá kình
cá ngạc, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác”
Đứa trẻ ấy đang lắng nghe tiếng Trần Bình Trọng :
“ Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm vương đất Bắc”
Đứa trẻ ấy đang đọc lại hai chữ Sát thát
Khắc trên cánh tay tướng lĩnh nhà Trần
Lắng nghe từng cây cọc Bạch Đằng
Đánh tan bao đạo quân phương bắc
Học cách ngẩng cao đầu của người dân Đại Việt
Không phải một lần bóp nát quả cam
Bóp nát hết đêm này đêm khác
Đấm vào đá bàn tay tóe máu
Muốn giết lũ giặc Minh tàn bạo, ngông cuồng
Và trong mơ người thấy sóng sông Lường
Dựng sáng quắc chói lòa muôn kiếm sắc
2.
Đêm ấy
Lê Lợi ngồi mài gươm
Đầu chít khăn
Lưng thắt dây rừng
Chân đi giày cỏ
Rừng Lam hoang dã
Sóng sông Lường vạc đá
Tiếng gươm siết vào ánh trăng
Trong ông vọng lên tiếng rú
Đau nhói và nhức buốt
Con ong đang say mùa mật ngọt
Con khướu đang mùa ca hót
Con hươu đang mùa đập gạc
Con công đang mùa gọi bạn tình
Hạt gọi hạt sinh sôi
Mầm gọi mầm tươi tốt
Rừng của ta ơi
Sao phải rú lên
Làng bản của ta ơi
Sao phải rú lên
Con trâu bị bóc móng
Con voi bị chặt ngà
Tê tê bị tróc vảy
Giặc nhà Minh khát máu
Chúng đến như mây đen
Chúng đến như kiến lửa
Tàn bạo hơn hổ dữ
Kẻ trước vét bạc vàng
Kẻ sau lùa đàn bà con gái
Lăng tẩm, đền đài bị đốt thành tro bụi
Người Mường không còn được mở hội đoọc moong
Chúng đập nát bàn thờ Tổ tiên nội ngoại
Người Thái không còn được mở hội ba mươi sáu
điệu xòe
Chúng đập nát bàn thờ đắm pang
Người Tày, người Nùng không còn được mở hội lùng tùng
Chúng đập nát bát hương thờ đắm, thờ hàm, thờ lộc mệnh
Người Mẹo không còn được mở hội gầu tào
Chúng đập nát bàn thờ thờ xử – ca – hò – de
Giặc nhà Minh cậy thế đông người
Ngạo mạn tự xưng mình là thiên tử
Ngạo mạn tự xưng xứ mệnh thiên triều
Vênh vang đạo Lão, đạo Khổng, đạo Trang
Nhưng thực chất là quân vô đạo
Ngôn ngữ mạnh nhất là giáo gươm tàn bạo
Vụn đất nào cũng rên xiết thương đau
*
Đôi mắt ông nhìn vào thẳm sâu
Lặng lẽ vạch ra bao nhiêu thế trận
Thế núi, hình khe và lòng dân vô tận
Là thiên la địa võng diệt bạo tàn
Ông hình dung ra chim thú cỏ cây
Những nghĩa quân vô hình bốn phương chờ giặc
Một thế trận nhân dân bủa vây dày đặc
Cuộc ra quân không chỉ có gươm thần
Mồ hôi đầm áo
Mồ hôi đầm khăn
Mồ hôi tưới lưỡi gươm rực đỏ
Ông khoát nước sông để giấu đi ngọn lửa
Đang bùng lên trong trái tim mình
Bao nhiêu đời Đại Việt đã mài gươm
Gươm giáo sáng từ thuở khai thiên lập địa
Chưa một ngày được giắt vào bao
Chưa một ngày nằm yên trên vách
Không phải để chiến tranh
Chỉ để sống bình yên
Đứa trẻ sinh ra được múa hát trong làng xóm của mình
Con gái con trai được yêu nhau không trốn chui trốn lủi
Cái cọn nước được quay bên dòng suối
Đưa nước về tươi tốt rẫy nương
Chum rượu cần được nghiêng ngả bên nhau
Khi lễ hội vui xuân, khi cưới chồng cưới vợ
Cái rựa cái rìu được chặt gỗ lớn dựng nhà cao
Cái dón cái gùi được thơm hạt ngô hạt thóc
Người miền xuôi được mở hội đua thuyền rước nước
Người miền ngược được mở hội cồng chiêng
Nét đẹp nghìn năm được con cháu nhân lên
Tiếng hát lời ca mãi thơm nguồn cội
Nhưng giặc phương Bắc không cho ta nghĩ vậy
Trăm năm nghìn năm chúng nuôi mộng xâm lăng
Lời ngọt ngào nào cũng ẩn chứa vuốt nanh
Trong cái mũ nhỏ hiện hình một con thú lớn
Từ Hán, Ân, Ngô, Tấn, Đường, Tùy, Tống
Hau háu cú diều nhìn Giao Chỉ, Giao Châu
Muốn xóa xổ cháu con Lục Tục Kinh Dương Vương
Bằng sức mạnh vuốt nanh quỷ dữ
Dân Lạc Việt mấy nghìn năm mất ngủ
Hát ru con gươm giáo vẫn gối đầu
Nâng lên tay một vụn đất mỡ màu
Cũng hiện lên mấy lần cung nỏ
Lê Lợi mài gươm là tiếng lòng trăm họ
Là thuận theo ý nguyện của trời xanh
Ông biết rõ một đường gươm không giết sạch giặc Minh
Bởi bọn chúng nhiều như kiến cỏ
Hung tợn hơn dã thú
Nỗi nhục cha ông chúng nghìn năm con đó
Cột đồng Đông Hán đã gãy
Thoát Hoan chui vào ống đồng chạy trốn
Trên sông Bạch Đằng
Trương Ngọc chết
Ta bắt sống Ô Mã Nhi, Lệ Tích Cơ, Phàn Tiếp
Bầy chim Lạc vẫn bay lượn trên mặt trống đồng
Dân tộc này vẫn bơi thuyền và múa hát
*
Ông vung gươm chém đá xin thề
Mục Sơn, Linh Sơn, Pù Dinh…lặng lẽ nghiêng về
Trăng sao tụ vào ánh thép
Lưỡi gươm nhập khí thiêng trời đất
Cỏ cây sáng lên thành hịch
Rừng núi âm vang cồng chiêng
Những tia chớp bật loé từ lưỡi gươm
Rừng Lam phát hào quang bốn cõi
Tất cả những nỗi đau đã thành tiếng gọi
Người trăm nơi như mạch nước thấm về
Thái, Mường, Kinh…đủ mọi vùng quê
Nhập vào đoàn quân trùng trùng điệp điệp!
Những lưỡi đao ngời lên ánh thép
Như lửa thiêng thắp sáng bản mường
Những lưỡi đao phát rẫy làm nương
Những lưỡi đao làm cung, làm nỏ
Những lưỡi đao đào măng, đào củ
Làm nhà sàn và làm cọn nước
Đang cùng ông mài sắc
Cát sỏi nhập vào đội ngũ đứng lên
Trừ giặc Minh!
Trừ giặc Minh!
Đi giải phóng mình không phải gọi thành tên
Đi giải phóng mình không đòi ai tạc tượng
Ông nghe rõ cả núi rừng cộng hưởng
Đó là lời truyền dụ ba quân
Rầm rập bàn chân nối tiếp những bàn chân
Giáo gươm sáng rực trời gươm giáo!
Nghe ngọn gió chuyển mình thành bão
Chớp xé mây đen, sấm động chân trời
Một mình trong đêm bỗng ông thốt thành lời
Gươm là bút viết bình Ngô đại cáo!
Ông nghe tiếng sục sôi cuộn trong ngực áo
Nghe cây lim cây sến nhập vào tâm
Nghe sông Lường muôn trận lũ réo gầm
Nghe Lỗi Giang cho sức muôn ngọn thác
Sông Bần, sông Âm dội lên tiếng hát
Chí Linh, Pù Luông sừng sững dựng tên mình
Và ông nghe từ lá cọ lá tranh
Cây bương cây vầu về dựng kho dựng trại
Cây song cây mây buộc thuyền bè vững chãi
Cây ngơn cây kiêng làm mộc làm khiên
Cây tre cây mai làm chông làm tên
Cây nứa cây giang làm gùi làm dón
Nghe núi mở những hang động lớn
Để chở che nghìn vạn quân vào
Ông giơ gươm dưới trời sao
Nghìn tia chớp sáng dọi vào đất thiêng
Như hồn sông núi ngời lên
Gần xa muôn nẻo về bên bóng cờ
Đất rung tiếng thác xô bờ
Làng trên xóm dưới sẵn chờ xung phong
Hỡi bày giặc dữ cuồng ngông
Hãy nghe tiếng thét tận cùng nỗi đau
Hờn căm đã kết vào nhau
Tay ta đã biến gươm đao thành lời
Bao nhiêu máu chảy đầu rơi
Sẽ thành sức mạnh sinh sôi triệu lần
Hờn căm đã dựng sóng thần
Bão giông đã giục xa gần bão giông
Ngực ta thành ngực trống đồng
Tim ta vọng dội thành cồng thành chiêng
Gươm này sẽ hoá lửa thiêng
Chặt nghiêng sông suối chém nghiêng núi rừng
Muôn phương bện lại thành thừng
Cỏ rơm lại hóa sóng lừng sục sôi
Gươm thiêng sẽ sáng rực trời
Trăm hoa Đại Việt lại ngời sức xuân
Triệu người thành triệu nghĩa quân
Xin thề quét sạch bạo tàn giặc Minh
NGUYỄN MINH KHIÊM
(Còn tiếp)
- Sách Tiếng Việt 1 bộ Kết nối: Chữ cái P – học sinh không được học?
- Nhà thơ Hồng Thanh Quang: “Chỉ mong được thấu hiểu…”
- Frank Gerke và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – Tùy bút Trần Đăng Khoa
- Bút ký Nguyễn Thị Tâm: Bâng khuâng mùa nhãn & Nghĩa Tâm xuân về
- Những thiên thần của người gác rừng – “Toy Story” ở Việt Nam