Khoảng không gian thánh thiện sau cùng

Vanvn- Hoàng Vũ Thuật xem thơ như là tiền định, “tôi chào đời từ vành nôi huyền ảo”, “trái tim trầm tích”… Ấy là sự trùng phùng, bén duyên với thơ, trưởng thành cùng thơ. Sau hơn mười lăm tập thơ ông đã xuất bản, Sự hiện diện của em có thể được xem là một quá trình thu nhỏ lại từng quãng lớn lên và trưởng thành trong Thơ ông.

“Nỗi đau thắt nút”

Bằng sự kiên trì bền bỉ, Hoàng Vũ Thuật đã mang một dáng riêng cho chính mình trên thi đàn. Sử dụng bút pháp hiện đại, qua lối siêu thực, thế giới trong thơ ông nóng rẫy nỗi buồn. Mã cốt trong tất cả những đứa con tinh thần của ông chính là bi kịch. Cho đến khi đã ở tuổi 77, nhưng suốt cuộc đời đều thấy mình là đứa trẻ (hình ảnh em bé, cậu bé lóng ngóng, đứa trẻ… có mặt trên tất cả các tập thơ đã xuất bản của ông). Đây là một cách diễn đạt đáng quý, bởi đó là tiếng nói được cất lên từ một người trong cuộc, không mang bóng dáng của nghệ thuật xây dựng hình ảnh. Ở đó có một điểm bi kịch cố định: ông luôn thấy mình là một kẻ khạo khờ bất mãn “Anh làm sao thức dậy mặt trời con”.

Bìa sách “Sự hiện diện của em” – thơ của Hoàng Vũ Thuật.

Nhà thơ đã đặt tên cho phần Một của tập thơ là Bi kịch Hăm Lét. Với Hoàng Vũ Thuật, khi ở trong bi kịch càng thấy rõ chính mình: “Bông hoa xấu xí đặt trong chiếc bình đêm/ thứ nghệ thuật sau cùng tôi trau chuốt/ thưa ngài chủ nhân của bóng tối/ vết sẹo che chắn không ai có thể nghi ngờ/ với nỗi đau thắt nút”, “Mỗi ngày uống cạn bảy cốc nước/ luẩn quẩn mươi bước để thấy mình phong rêu/ giữa cuộc đời đóng hộp”… Và thơ chính là nơi giúp ông tìm về tâm thức: “muốn đi tìm lại cái bản mặt thật mình/ cho ngày mai kịp đến với cõi thiền ngôi chùa cổ/ những viên ngói mở mắt nhìn”.

Nghệ thuật và thời thế, tuy có những sự thống nhất nhưng lại luôn tồn tại rất nhiều mâu thuẫn. Giữa chúng luôn hiện hữu thái độ bất mãn, đau đớn, tấm tức, tuyệt vọng của những tâm hồn và tư tưởng lớn trước các vấn đề của đời sống… Hoàng Vũ Thuật đã chọn một lối viết kín đáo để bộc lộ thái độ và khát vọng thay đổi, tái tạo, tái sinh thế giới bên trong và bên ngoài mình. Chúng ta thấy ở đó một bi kịch kép giữa cái tôi và cái ta, giữa một tâm hồn hưng phấn với tự do trong nghệ thuật và một trái tim trầm tư về các vấn đề về lịch sử chính trị xã hội. Ông “muốn là con chim ưng mang sứ mệnh bầu trời/ trên đôi cánh dũng mãnh/ nhưng cái trò chơi xúc xắc chẳng buông tha”, ông nhận thức mình đang ở tận cùng của sự bất lực. Và ông đã chọn cách tự thay đổi chính mình, cảm hóa thái độ của mình để: “làm nên vũ – trụ – kép/ với một cái tôi rất khác”. Cái tôi đó là cái tôi tôn thờ và phụng sự nghệ thuật…

Mẹ nơi em

Đôi khi nhìn thấy mẹ nơi em là nhan đề của một bài thơ, tên của phần Hai tập thơ. Phải chăng, tác giả đang muốn tô đậm ở không gian này hình ảnh “mẹ” và “em”? Đôi khi thấy mẹ nơi em được đặt ở vị trí đặc biệt trang trọng, vừa thể hiện tình yêu thương và nỗi nhớ của người con trai dành cho mẹ “cơn ngái ngủ làm cậu bé lăn trên nội cỏ/ mênh mông & mênh mông/ đôi vú mẹ ngọt ngào ngày xưa vẽ lên mây/ bức tranh thiên sứ” vừa khẳng định được tình yêu của “anh” dành cho “em”, khẳng định vị trí của người con gái ấy trong trái tim anh: “mẹ nơi em”.

Cứ men theo tập thơ, chúng ta thấy ở phía đó một tâm – hồn – con nhớ thương ba mẹ mình da diết, thậm chí lay động chúng ta bởi những hình ảnh tội nghiệp. Đọc bấy nhiêu dòng này, có ai không xúc động trước một xa xót vắng bóng mẹ cha gần được một đời người. “tôi hóa tượng phật a di đà nói bằng ngôn ngữ lặng thinh/ như thuở chưa ra đời ngủ chín tháng mười ngày trong bào thai của mẹ”, “tôi thèm một thế giới nén/ như hai vòng ôm xiết chặt sau mấy chục năm bỗng nhiên gặp gỡ” (Hành tinh long lanh như cặp mắt tôi yêu), “Những người mẹ trên trái đất này/ như vì sao triệu năm vẫn sáng/ dù họ đã ngủ đông giữa vũ trụ từ lâu” (Đôi khi thấy mẹ nơi em), “bảy mươi năm con thuyền gãy lái/ con vẫn là đứa bé nhút nhát nhất nhà/  vẫn thấy mình lạ xa” (Tấm lưng rộng của người)… Những câu thơ ngậm giọt nước mắt đàn ông, giúp tâm hồn đứa con bé bỏng đi qua được bao nhiêu mùa, bao nhiêu năm mỏi mòn cô độc. Ngày tháng đã vỗ vào “dung nhan nằng nặng” ấy không chỉ những nếp nhăn mà còn vỗ vào trái tim ông một đời người mồ côi, nhớ thương cha mẹ, nhớ thương thân phận, chính mình.

Ở phần này, chúng ta còn thấy thấp thoáng đâu đây một tình yêu như là tình yêu của tuổi trẻ, nhưng lại được đặt vào “hiệp cuối” cuộc đời:

“tôi phải chịu đựng suốt cuộc đời khi bước vào hiệp cuối

trái tim hiểu tôi hơn ai hết

đã lăn tròn cùng kiệt tuổi ấu thơ cả khi về già…”

Ông đã gửi tình yêu vào thơ, để bao nhiêu thiết tha ở cuối đời như hoa cỏ nằm dưới thung lũng sâu đang nỗ lực vươn mình về phía ánh sáng nhỏ bé, có thể là cuối cùng nhưng rất mãnh liệt, ví như “gió hú/ bên miệng vực”… Nếu đọc những câu thơ này: “Anh biết trên nấm mồ của anh mai sau/ sẽ mọc lên cái cây ai đấy vừa trồng/…/một cái cây xinh xinh ai đấy vừa trồng”, “anh sợ một ngày em rời bỏ anh/ rời bỏ anh/ nước rời bỏ đất mây rời bỏ trời xanh/ như anh rời bỏ trang giấy trắng cuộc đời”… hình dung như ai đó đã bật ra một cú cười vì hoài nghi Hoàng Vũ Thuật là người đã “đạt đến cảnh giới của sự bình tâm” (nhà phê bình Văn Giá).

 Bài thơ Ngọn nến sắp tắt đặc biệt làm nổi bật được tinh thần đó:

“Hãy ôm thật chặt trước khi anh biến mất

như anh ôm em

hãy ôm thật chặt

dòng ánh sáng của thiên thần

sẽ lớn trong vòng tay”

Ngọn nến sắp tắt là một bài thơ viết về tình yêu trong bi kịch bởi nó không phải từ sự mãnh liệt của tuổi trẻ. Ở bài thơ này, tác giả viết cho tình yêu với sự nhức nhối, khát khao của một thân phận đã ở ngưỡng chiều muộn. Nhưng Hoàng Vũ Thuật đã lựa chọn một cuộc sống khác, đổi mới mình, hồi sinh mình, luôn đi kiếm tìm mình ở phiên bản tốt hơn với sự chân thành và tận tụy. Anh muốn được sống thêm lần nữa với đời, với tuổi trẻ; không phải tuổi trẻ đã đi qua, mà với tuổi trẻ hiện thời đang tồn tại xung quanh, một sự hứng khởi vô cùng, vì không còn gì để mất, nên Anh đã cháy rực rỡ cho tình yêu – tình yêu với cuộc sống, với con người nói chung và tình yêu đôi lứa nói riêng. Anh thừa nhận phép màu của tình yêu, khiến cho “ngọn nến sắp tắt” được sáng thêm một lần nữa, lung linh, nóng rẫy: “tắt rồi vẫn đỏ”. Và đó là lí do vì sao, Hoàng Vũ Thuật viết Sự hiện diện của em.

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật

“Sau hồi chuông giao thừa”…

Sự hiện diện của em là tập thơ mà không/ thời gian ở đó vừa được xác lập vừa bị xóa nhòa. Và dù ta vẫn cảm được những chông chênh, nhưng vẫn thấy ở đó một “vô vi”, một “thâm trầm”. Mặc cho lụi tàn, âu lo, đổ vỡ nhưng sau tất cả, những bài thơ ông viết chính là: “Một khoảng không gian thánh thiện sau cùng/ Còn lại bên tôi” (Di sản, in trong tập Tháp Nghiêng). Tất cả những điều đó lắng lại ở phần Ba của tập thơ.

 Ở phần Đẹp và buồn, thế giới thơ trong ông được hình dung như cõi niết bàn. Ông đã “vô vi” sau hành tình rong ruổi và khám phá đời sống muôn màu, lắm những gương mặt thật giả, thực ảo,… Để chứng ngộ được, nhà thơ hẳn đã lớn lên và trưởng thành như một hành trình phát triển của một con người… Lúc thấy ra mọi sự “đẹp và buồn” phải chăng ông và thơ ông đã là “một – người – trưởng – thành” ?

Có lẽ đúng vậy. Thơ ông đã chạm tới muôn người bởi trong lời tự thú của chính mình, chúng ta đã tìm ra được những vấn đề triết học của con người được nhẹ hóa bằng tình cảm: “Cuộc nói chuyện không thành/ tôi biết thế/ nhiều cuộc nói chuyện không thành đã đập vào đời tôi mặt trống thủng/ nhưng tôi xin được nói lời cám ơn không chút đau buồn” (Xin lỗi mùa thu)… Tôi từng nghĩ rằng, có một nỗi mặc cảm chung về hai chữ TỰ DO trong tất cả chúng ta, và nó đặc biệt với nhà thơ Hoàng Vũ Thuật, để khi ông viết lên, ngẫm ngợi mới thấy xót xa, nhức nhối:

“bạn là dấu thánh khảm lên trán tôi

chúng ta đấu tranh cho hiện thực

nếu bạn ngã xuống ai sẽ dựng lại nỗi đau

giá chúng mình cùng là những thực thể tự do”

(Hành tinh thứ bảy)

Với bài Bụi quý (bài thứ 77 cũng là bài cuối trong tập thơ), Hoàng Vũ Thuật đã gửi gắm một ý niệm về kiếp sống của hai cõi đang tồn tại trong nhân gian. Với hai dòng tách đôi nhưng là một câu thơ, bất chợt tái hiện trong ta những suy nghĩ sâu sắc về kiếp người trần tục và kiếp thiền tu cõi Thánh thần, Phật tử, “vệt phù vân nghìn năm trên núi”“phù vân trong cõi người ta”. Trong cách so sánh “chưa bằng” đầy ý nhị, tinh tế và sâu sắc của nhà thơ, trước hai kiếp sống ấy, một sự trân trọng đặc biệt Hoàng Vũ Thuật đã dành riêng cho “cõi người ta”. Đời sống trong cõi trần với hai phần hiện hữu CON NGƯỜI, câu thơ giúp ta mở rộng sự liên tưởng, hình dung được những mặt trái ngược, đầy mâu thuẫn của đời sống nhân sinh, ở đó có tốt đẹp và xấu xa, bao dung và hận thù, yêu thương và ích kỉ,… Để chiến thắng được gàn dở, ngu ngốc, bần tiện,… con người phải có rất nhiều sức mạnh. Câu thơ vừa ngợi ca con người đã luôn đấu tranh với phần CON bên trong, luôn hướng đến phần NGƯỜI, phần của CHÂN – THIỆN. Điều đó, “vệt phù vân nghìn năm trên núi” khuyết đi, thiếu đi. Tất nhiên, để đến được “vệt phù vân trên núi” kiếp người đã phải đi qua “nghìn năm” đau khổ của con người. Giới hạn đó là “niết bàn”“cõi người” luôn mong cầu để chạm tới sự An Nhiên đúng nghĩa. 

NGUYỄN HỒNG NHẬT

Báo Văn Nghệ số 50/2021

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *