Đọc Phạm Công Trứ qua những câu thơ hay

Vanvn- Đọc thơ Phạm Công Trứ, phần lớn các bài thơ hoặc công khai hoặc bàng bạc cái sắc điệu buồn, cô độc (không phải cô đơn, thơ Trứ ít cô đơn), nhiều tự tình, ít hướng ngoại…

Nhà thơ Phạm Công Trứ

1. Khi đặt vấn đề như nhan đề của bài viết này, người viết phải làm hai công việc: i, chọn ra những câu thơ được coi là hay (theo cảm nhận riêng), và ii, qua đó trả lời cho câu hỏi: liệu có hình dung được và hình dung như thế nào về thơ Phạm Công Trứ, dĩ nhiên, trên những nét chính.

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”…Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại, vẫn được chú ý, tuy không còn là duy nhất, cuối cùng. Giờ đây, đối với mỗi tác phẩm, cái nhìn chỉnh thể, toàn khối, như một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn, sống động được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, lý thuyết về thi pháp học đòi hỏi mỗi phương thức, phương tiện biểu hiện, các tín hiệu thẩm mỹ, các ngôn từ… đều được nhìn một cách có hệ thống trên cấp độ quan niệm nghệ thuật. Như vậy, trong khám phá thi pháp học, những nhãn tự, thần cú đó, vẫn được xem là những tín hiệu nghệ thuật không thể bỏ qua, tuy với những lưu ý cần thiết.

Tập thơ “Lời thề cỏ may” của Phạm Công Trứ

Nếu nhìn kỹ vào đơn vị câu thơ hay, thấy có hiện tượng song trùng: i,một mặt, nó bị giới hạn, bị “quy chiếu” về tác phẩm mà nó thuộc về; ii, mặt khác, một số câu thơ hay (không phải tất cả) có đủ năng lượng để tách ra tồn tại tương đối độc lập, tự đủ, tự trị, đến nỗi người đọc chỉ nhớ chúng mà quên phần còn lại của cả bài; khi đó, câu thơ hay có khả năng lớn/rộng hơn chính nó khi đang ở bài thơ gốc. Điều này chưa thấy có ai bàn đến. Một số câu thơ Kiều trác tuyệt được tách ra khỏi văn cảnh cụ thể của văn bản để gia nhập vào đời sống tinh thần, văn hóa của dân tộc bao giờ cũng lớn/rộng hơn nghĩa nguyên khởi.

Trong trường hợp ở những bài thơ ngắn, các câu thơ hay không chỉ rộng/lớn hơn chính nó khi ở tác phẩm mà còn có thể rộng/lớn hơn cả toàn bộ bài thơ gốc vốn sinh ra nó. Câu thơ hay luôn có khả năng bay ra khỏi từ trường của toàn bài để trở nên độc lập. Những câu thơ hay của Phạm Công Trứ về cơ bản thuộc dạng này.

2. Nhìn chung, các câu thơ hay mà Phạm Công Trứ có được chụm vào hai chủ đề chính: cảnh tượng và tâm tình cá nhân.

Trứ là người gốc gác thôn quê. Anh cũng luôn nhận mình là “người quê”, “gã quê”, “nhà quê”…, và người như thế thì có “thơ quê”. Cái hay của nhà thơ họ Phạm này không chỉ có vốn sống, tri thức địa – sinh thái – xã hội – văn hóa quê, mà trong thẳm sâu tâm hồn, anh đã nuôi nấng, gìn giữa được một đứa trẻ con nhà quê, để mỗi khi được phát động, nó cất tiếng về quê hương một cách bất ngờ, hồn nhiên, thú vị. Đây là chất thơ của đứa trẻ quê tinh tế:

Cánh chuồn lặn xuống đáy ao

Quả chuông tím phía bờ rào còn run 

(Nhặt ở bờ rào)

Đom đóm chong đèn đêm đêm

Hạt vừng đội đất mọc lên… cây vừng

(Tháng Ba)

Cặp câu lục bát thứ hai đọc lên tưởng không có gì, một cách nói có vẻ trẻ con, hiển nhiên (hạt vừng đội đất chả mọc lên cây vừng thì là cây gì?). Người lớn thấy hiển nhiên, nhưng trong cái nhìn của trẻ thơ, chúng thấy ngạc nhiên, bỡ ngỡ, như một phát hiện. Những câu thơ như thế khiến người đọc người lớn nhận ra cái già cỗi của mình. Câu thơ giản dị tận đáy mà không hẳn dễ làm, không dễ gì có được.

Những câu thơ dựng lên một cảnh tượng về đời sống của Phạm Công Trứ thường được khởi từ một cái nhìn rất đỗi trẻ thơ, anh nhi, của xúc cảm thuần túy, đột ngột. Đây là một câu thơ thật xuất sắc:

Từng đàn con trẻ lăn trên cỏ

Chân đạp vào trời, miệng hét vang 

(Nắng mới)

Một số đông trẻ con đang nô đùa. Tư thế của chúng mới hồn nhiên, tinh nghịch làm sao. “Chân đạp vào trời” khiến ta nghĩ đến vóc dáng, động thái của những đứa trẻ. Chúng là những thiên thần trên mặt đất. Chúng dường như không thuộc về thế giới lấm láp của chúng sinh. Chúng thuộc Thiên nhiên, Vũ trụ này. Chúng là chủ nhân ông của sự sống, cùng vũ trụ làm ra sự sống. Câu thơ đầy thi tính, có khả năng tồn tại độc lập, tự trị. Câu thơ đã mang sức vóc rộng/lớn hơn chính nó khi còn ở toàn bài.

Trong một khung cảnh hiền lành hơn, những đứa trẻ quê làm nên một bức tranh, một cảnh quan thân thuộc, khỏe khoắn, thanh bình, no đủ:

  Đường làng bề bộn rơm phơi

Trong rơm có cả tiếng cười trẻ con

(Mùa màng)

Những câu thơ hồi ức về làng quê của Trứ bao giờ cũng tự tin, khỏe khoắn, trẻ thơ và xuất thần như thế.

Trở về với tâm tình cá nhân, nhà thơ sống với nhiều quan hệ. Khi thì tâm tình với mẹ. Khi tâm tình với người đẹp. Khi lại quay ngược vào trong như tự thủ thỉ với chính mình.

Một câu thơ thật giản dị mà nói được những tâm sự thầm kín, cảm động của người con đối với mẹ già:

  Mỗi năm mẹ một thêm già

Lưng mẹ còng xuống hiên nhà cao thêm

(Quê)

Thơ Phạm Công Trứ ít nói về mẹ, nhưng chỉ một câu thơ trên cũng đã có sức nặng đủ gợi lên nhiều cảm xúc ân tình, hiếu đễ của những đứa con trên mặt đất này… Có thể nói, đây là một câu thơ hay trong bảng xếp hạng những câu thơ hay viết về mẹ trong nền thơ Việt.

Thơ Trứ cũng như thường lệ, nói nhiều về tình yêu với nhiều cung bậc, trạng huống. Có tỏ tình. Có nhớ nhung. Có hạnh phúc. Có đổ vỡ…Nhiều câu thơ thật thông minh, thú vị. Những người trẻ hôm nay nhiều khi vẫn mượn thơ Trứ để bày tỏ nỗi niềm. Có không ít những câu thơ cất cánh bay ra khỏi chỉnh thể gốc để đi vào đời sống theo cách của những châm ngôn. Đây chính là niềm mơ ước của tất thảy những người làm thơ. Phạm Công Trứ là một thi sĩ thực sự có được niềm hạnh phúc theo nghĩa ấy:

Mắt em trong suốt thời con gái

Trời ơi con mắt của tháng Giêng

(Mùa xuân nói gì)

Em đi để lại tiếng cười

Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê

Trăng vàng đêm ấy bờ đê

Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may

(Lời thề cỏ may)

Con sông không ốm mà gầy

Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn

(Thu cảm)

Tình tôi là một mũi tên

Đã ra khỏi nỏ là quên đường về

(Tình tôi I)

Người như nước chảy vào thành phố

Ta nắm tay mình ngược ngoại ô

(Chiều)

Các câu thơ trên kia tại sao được gọi là hay? Thì vẫn cất lên những tâm tình của giống người muôn thuở vậy thôi, thật quen. Nhưng cái muôn thuở, quen thuộc ấy được nói bởi cách nói mới, chưa từng có nhờ phép lạ hóa, khiến các câu thơ trở nên bỡ ngỡ, khinh khoái trong lòng người đọc. Một câu thơ hay nhất thiết phải tạo ra được nỗi ngạc nhiên cho người tiếp nhận. Tài năng và cống hiến của mỗi nhà thơ chính là ở chỗ đó.

Trong mạch thơ tâm tình cá nhân, Phạm Công Trứ cũng có một số câu thơ đột xuất, thường mang màu sắc chiêm nghiệm, buồn, nặng chất suy tư:

Có người với ấm nhân- trần

Ngồi Quan – Hoa – Các ngâm vần – thơ – quê

(Hôm nay)

Người đi kiếm cái giầu sang

Ta về gảy khúc TRĂNG VÀNG NGÕ QUÊ 

(Độc huyền tự khúc).

Một câu thơ có tính tổng kết một đời thi sĩ, thoạt nghe thấy vui, thanh thoát, ngẫm ra, cũng không giấu nổi hương vị ngậm ngùi:

Cuối cùng thì đất lên ngôi

Tôi hóa thành cỏ hát lời hư vô! 

(Cỏ và tôi)

Cuộc sống vừa thế này vừa thế khác, và thế khác nữa…Đa chiều, nhiều mặt, bất định, vô thường. Đó cũng chính là sự thức nhận từng trải đã chi phối xuyên suốt cái nhìn cái cảm của nhà thơ về cuộc đời.

Nhà phê bình Văn Giá

3. Sinh thời, nhà nghiên cứu phê bình Chu Văn Sơn và tôi hay có nhiều dịp trò chuyện cùng nhau, phần nhiều là chuyện văn chương. Tôi nhớ, có lần họ Chu nói với tôi cái ý: Mỗi nhà văn suy đến cùng phải có được cái giọng của riêng mình; có nhà văn có vẻ nổi tiếng, nhưng bảo cái giọng riêng thế nào, không thấy!…Tôi cho là họ Chu có lý. Giọng điệu chính là cái “vân chữ” (như cách nói của nhà thơ Lê Đạt), là cái tông cái tạng của mỗi tác giả. Bàn luận về giọng không dễ. Người ta thường hay dừng ở các nhận định khái quát với những đại lượng lớn: trữ tình, cảm thương, trào phúng, châm biếm, mỉa mai, ngợi ca, suy tưởng…

Nếu chỉ như vậy thôi sẽ rất khó khu biệt giọng người này với giọng người khác. Nương theo cách gọi truyền thống, khi nói về thơ lục bát, cũng có khi chia ra các giọng: giọng than, giọng kể, giọng ghẹo, giọng châm… Có lần chính nhà thơ Phạm Công Trứ tự nhận thơ mình mang cái “giọng đùa” (Thơ đùa từ thuở sinh viên/Mười năm có lẻ còn nguyên giọng đùa – Tự sự). Nếu giọng đùa là giọng chính, giọng chủ trong thơ Trứ, tại sao trong các câu thơ hay nhất của anh lại thấy ít chất đùa đến vậy? Tôi chỉ tìm thấy cái giọng đùa trong mấy câu ít ỏi dưới đây:

Trên đò các cụ tụng kinh

  Chúng mình trẻ quá, chúng mình “tụng” nhau!

(Đường vào chùa Hương)

      Gái làng môi đỏ như son

Già làng mắt sáng như còn trai tân

(Tam khúc cửa đình)

Một cái nhìn đời sống thật hóm (câu trên), và vừa hóm vừa có cả cái quái nữa (câu dưới).

Khi bàn về giọng riêng của một nhà thơ, người ta thường đi tìm nguyên nhân chủ yếu ở nguồn cảm hứng nghệ thuật. Mỗi một nhà thơ, theo ý của Xuân Diệu, bằng thứ ăng- ten cực nhạy nào đó, chỉ có thể bắt sóng về một vùng đời sống nhất định  để làm nên cái vùng thẩm mỹ của riêng mình. Có nhà thơ hướng về cái cảm thương. Có nhà thơ hướng về cái hùng, cái cao cả. Có nhà thơ lại hướng về cái vui vẻ, hài hước…

Ở Phạm Công Trứ, cũng có những câu thơ mang chất đùa, hài hước như đã dẫn ra ở trên nhưng vẫn chưa đủ thuyết phục để nói rằng nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ Trứ là cảm hứng trào tiếu. Đọc thơ Phạm Công Trứ, phần lớn các bài thơ hoặc công khai hoặc bàng bạc cái sắc điệu buồn, cô độc (không phải cô đơn, thơ Trứ ít cô đơn), nhiều tự tình, ít hướng ngoại. Một số bài thơ mang giọng đùa vui, thậm chí có lúc tếu táo cũng không lấn được cái sắc điệu này. Tôi gọi đó là cái giọng tự nhủ ngùi ngùi, làm thành một âm điệu bao trùm trong thơ Trứ. “Tự nhủ” nên lặng lẽ, âm thầm, không ồn ào, ít nói to; “ngùi ngùi” như thầm thương bản thân mình, cái thương không đến mức than buồn, tự thán. Nó cũng không ngả về bi lụy. Người thơ này rất biết thương mình nhưng cũng rất biết tự trọng (lắm lúc tự trào), kiêu ngầm, thương mình nhưng giấu không muốn cho ai thấy… Thì ra trong thơ Trứ, cái đùa đùa chỉ là vỏ ngoài, cái tự nhủ ngùi ngùi mới là cái ruột bên trong.

Một cái giọng như thế tất sinh ra câu thơ vừa có nét đùa (nói ngoa nói phóng) vừa có cái tư thế vượt lên một cách đầy tự trọng này:

Nhà quê khí huyết tràn trề

Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân

(Ra phố)

Nhưng cũng chả giấu được cái giọng tự nhủ ngùi ngùi của một thi sĩ “nửa phố nửa quê” Phạm Công Trứ…

 ***

Gần đây, Phạm Công Trứ có thổ lộ với tôi sắp tới anh định ra một tuyển thơ với cái ý như tổng kết một đời thơ của mình. Anh gọi tuyển này là “Thơ chùm”, hình dung đời thơ như một cái cây thơ đẻ ra 12 chùm quả, được đặt tên: chùm “Cỏ”, chùm “Tình”, chùm “Phồn, chùm “Linh”, chùm “Nghệ”, chùm “Luật”, chùm “Triết”, chùm “Sự”, chùm “Xưa”, chùm “Nhi”, chùm “Lão” với những giải thích có vẻ tâm đắc lắm. Tôi thì lại nghĩ khác. Nếu san định tập thơ theo hành trình thơ của tác giả thì người đọc có điều kiện thuận lợi hơn khi thâm nhập vào thế giới nghệ thuật mà tác giả kiến tạo. Nếu sắp đặt, chẻ ra theo các “chùm” (chủ đề) như thế, vô hình trung lại là một cách “gợi ý”, “cò mồi” đối với người đọc, mất đi cái thụ cảm vô tư của chủ thể đọc. Thêm nữa, mỗi bài thơ tự nó là một không gian thi tính. Cả tập thơ làm thành một không gian thi tính rộng mở, lan tỏa, chan hòa vào nhau. Khi sắp xếp theo các chùm như vậy, không gian thi tính lập tức bị chia cắt, hạn định, có thể lại tự giới hạn khả năng gợi nghĩa của mỗi bài thơ… Nhưng thôi, đã là nhà thơ, họ được quyền làm tất cả!

Đôi khi, vẫn thường nghe nói như một cách tự an ủi, nhưng cũng có phần thật bên trong, rằng một đời làm thơ có được một bài thơ hay, thậm chí một câu thơ hay (chưa dám nói để đời) đã được coi là thành công. Theo tinh thần đó, Phạm Công Trứ đã thật sự thành công trong thi nghiệp của mình!

 Ngày 5.5.2023

VĂN GIÁ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *