Chùm thơ tác giả trẻ Trác Phi ở Bình Định

Vanvn- Trác Phi tên thật Khổng Trường Chiến, sinh năm 1989 ở Bình Định, có thơ đăng nhiều ở các tờ báo, tạp chí; Hội viên Hội VHNT tỉnh Bình Định. Mẹ Trác Phi mất sớm, bố bị di chứng chiến tranh, lớn lên ở Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Bình Định. Trác Phi tốt nghiệp Cao đẳng Kinh tế – Đối ngoại TPHCM chuyên ngành quản trị kinh doanh, hiện đang phát triển mô hình kinh tế trang trại và tham gia vào các hoạt động VHNT của địa phương.

Trác Phi “tỏ tình” với thơ ca hơi muộn, tầm khoảng 6 năm trở lại đây, đã xuất bản tập thơ đầu tay Giấu thân vào nợ – Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2019. Trác Phi quan niệm “thơ không phải là thiên bẩm mà là quá trình trầm tích cảm xúc qua nhiều lần sang chấn tâm lý, vỡ ra thành câu chữ. Thơ là một góc nhìn khác của nhân sinh quan, là tấm gương phản chiếu thực tại”.

Đọc Trác Phi, nhận thấy anh đang xé cái tôi của mình ra, phân thân, nương níu về phương xa, “đi thật xa theo dấu chân của làng”, để soi ngắm lại mình, tự thú mình. Cái tôi bên trong gương đã lột trần cái tôi bên ngoài, cái tôi bên ngoài gửi gắm trong cái tôi bên trong: một Trác Phi nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn.

HOÀNG THỤY ANH giới thiệu

Tác giả trẻ Trác Phi

DẤU CHÂN CỦA LÀNG

 

Bầy chim xao xác trở về nguồn

Chiếc mũ trắng say mê kể về những con đường lớn

Rẫy bắp

Rẫy mì

Được tưới bằng vài ba lít rượu

Chiếc gùi,

Con chó

Ngày ngày vẫn đi theo dấu chân của làng

 

Cơ giới đâm rừng xẻ núi tan hoang

Bờ ta-luy sâu hun hút

Con suối tháng tư gào lên đỏ rực

Máu của làng thấm vào lá ủ

Ghè rượu cần chua lẫn đắng giữa nhà rông

 

Đêm thắp lửa không tiếng chiêng cũng chẳng tiếng cồng

Mấy chục ngôi nhà nằm bất động trong sương

Chiếc gùi và con chó

Ngày ngày vẫn đi

Đi xa hơn theo dấu chân của làng

 

Ở con đường lớn rượu tăm bông sóng sánh chảy tràn

Chiếc xe cũ xoáy nòng gầm lên khô rạc

Ào ạt gió

Lất phất mưa

Khét đất!

Ma làng đứng trầm ngâm ở phía nhà mồ

 

Tiếng gà gáy vang lên từ rừng phòng hộ

Lán trại mọc nhanh với máy cưa, lưỡi búa và lọ sơn màu đỏ

Không còn người cầm rựa

Chiếc gùi cùng con chó

Ngày ngày vẫn mò mẫm đi thật xa theo dấu chân của làng

 

Rồi họ không về nữa

Khói lam bay lên ở hẻm núi xa xa vào mỗi buổi chiều

Nơi dấu chân của làng phát tích

Chiếc mũ trắng

Vẫn còn

Khua tay múa chân say mê kể về những con đường lớn.

 

HOA DÃ QUỲ

 

Tháng chạp sắp về rồi

Lả lướt gió cao nguyên

Em đi qua khoảng trời riêng

Mỉm cười

Và…

Không quay đầu trở lại

Anh xót xa nhìn một loài hoa dại

E ấp sắc vàng

Bạc đãi bởi thời gian

 

Nỗi nhớ mênh mang

Dịu dàng đôi mắt

Gợn sóng màu ngọc bích lăn tăn

Xé tan im lặng

Anh mân mê chiếc khăn choàng trắng

Em thì thầm

 

Ấm áp không anh?

Gia Lai mùa đông tĩnh như một bức tranh

Thoang thoảng hương cà phê nở sớm

Giọt nắng vu vơ

Len lén gửi em nụ hôn thắm đượm

Em ngập ngừng

Ửng hồng đôi má

Giây phút ấy với anh là tất cả

Trò đời nghiêng ngả

Dẫm nát khóm dã quỳ

Từ đó em ra đi.

…..

Biển Hồ ơi! Chẳng biết đã nghĩ gì

Vẫn gợn sóng lam – xanh màu ngọc bích

Cơn gió hắt vào lòng anh cô tịch

Dã quỳ còn vàng rực một trời yêu!

 

MẬT NGỮ TRÊN CÀNH NGỌC LAN

 

Mật ngữ?

Đã ủ men hớp rượu từ giấc mơ trệu trạo

Để khói lạnh thấm vào cuống lá chớm thu

Mượn ô cửa tò vò đen thẫm

 

Nghe rả rích mưa phủ dấu chân khuya.

Từ lần rùng mình của thời gian

Mật ngữ gánh cả biến thiên giấu vào cỏ dại,

cả thăng trầm, đầy vơi trổ lên tiếng chuông vọng lại

Vừa tròn câu thơ sang sảng

 

Khát mấy trăm năm đủ lắng một chén trà?

Bản ngã cứ lang thang

Như bóng ma hắt lên môi chút lừng khừng ngây dại

Mảng thực bì run lên sau đêm giông rải rác

trên nhánh ngọc lan…

 

Trên nhánh ngọc lan

Thoang thoảng tràn theo nắng sớm trở về.

 

TÔI CHẲNG THỂ NÀO SAY

 

Tôi chẳng thể nào say

Bởi say chìm vào mộng

Giấc kê vàng trên miệng chén diễn giải đời sâu và rộng

Ngôn từ thốt ra để gột rửa chính mình.

 

Tôi không thể nào say

Bởi say tôi sẽ gặp

Gã đàn ông cầm trên tay con đầm nhép

Sang sảng cười rồi ngất đi

Ở nơi khai phá kho tàng vô tri của thằng người bội thực

Câu thuyết pháp thoát ra khỏi nóc chùa

Vẩy lên rêu phong những viên ngói hình vảy cá

Vỡ vụn

Rơi vào đâu?

 

Ở trong cơn say đó

Biến thiên của đôi tay đặt trên chiếc bàn cầu cơ hòng xoay vòng số mệnh

Hệ tuần hoàn như bay màu trong khoảnh khắc lóe lên ánh chớp ngoài kia

Cái kết mà thiên hạ vẫn thay nhau đồn thổi

Hãy sống như những con thiên nga…

 

Tôi vẫn chẳng thể say

Muôn ngàn hình hài sau đôi vai tôi gục xuống

Giấc mộng của kẻ khờ cố giải mã sự thoát thân bằng ẩn dụ

Đã có ai khắc lên bia mộ rằng tôi đã biết mình say?

 

Ở cái nơi tôi ngồi của ngày đã qua

Trào phúng với cỏ cây hóa thành vạch quang phổ không màu

Vô thức nhận ra giữa miệng chén tự sinh tự diệt

Cúi xuống rỉ tai nhau

Ai cho mượn cái gối đầu… *

 

Từ bao giờ tôi đã biết mình say?

________
* Lấy ý từ câu thơ của nhà thơ Vương Hoài

Tranh của họa sĩ Phạm Viết Hồng Lam

LẠI NHỚ MÙI MẮM CUA

 

Chân ruộng thấp chớm mùa nhẫy nước
Mẹ dậm theo bờ rách cả áo tơi
Bấc tạt liêu xiêu dáng mỏng giữa trời
Đổi lấy vị chua nồng nơi đầu lưỡi.

Nhà vắng mùi mắm cua từ lúc mẹ qua đời
Tiết tháng mười đau đáu nhìn theo người đi dậm
Hang hốc khoét sâu về nơi cỏ rậm
Chỗ mẹ nằm bây giờ chỉ cách một bờ mương

Mẹ chẳng dạy con bỏ xứ tha phương
Thấy đĩa rau lang nhớ món ngon mẹ nấu
Đừng cố bò ngang giữa vùng nước nổi
Mẹ đạp lên loài giáp xác đã ngàn năm

Phố sáng nay không phải ngày rằm
Ly cà phê đắng lời người ta nói
” Kẻ nhà quê gắng thương mùi mắm cua dân dã”
Bàn chân nhấc lên còn hăng rơm rạ

Lạ lắm mẹ à!
Họ cũng có quê hương…

 

CHIẾC VÒNG TAY BẰNG ĐÁ

 

Người con trai miền xuôi
Ngược cổng trời tìm nắng gió
Nương rẫy bung mầm xanh
Dáng người nho nhỏ
Gùi hạt ấm no về khắp buôn làng.

Lửa bập bùng cháy gam màu đêm
Thượng nguồn dòng Côn tháng sáu còn êm ả
Chiếc vòng tay bằng bạc vướng vào vòng tay bằng đá
Mình ngợp vào mắt nhau

Sơn nữ ơi! Em đã có chồng?
Có người chịu đeo vòng tay thì em không cần đi tìm nữa
Vết thời gian bám trên ngạch cửa
Vấp phải tiếng chiêng sũng ướt dưới mái rông

Em muốn bắt anh làm chồng!
Bok nói người dưới xuôi ngọt như con cá niên ngược nước
Vít đọt cần run run ấm theo hơi thở
Men lá rừng thương đã mấy ngàn năm?

Mai ta về Dak Tra có nhớ không?
Sơn nữ bên kia sông có còn ưng cái bụng
Con nghé thiếu hơi người nên lẻ đàn lạc giọng
Déo nắm cơm mình thưa chuyện trăm năm!

 

GỐM VỠ

 

Đốm lửa trên vai cha ông
Thế kỷ XV bừng sáng thương thuyền
Nắm đất bằng nắm tay
Là nắm cơm cưu mang nghề suốt dặm trường lịch sử
Câu ca như một nét riêng
Đời tre, dáng mây, sắc gốm
Đã qua…

Đốm lửa trên tay vài nghệ nhân già
Sau thế kỷ XX
Uể oải nhịp quay
Ngại ngần cách nắn
Khói cuộn hồn quê giữa bụng làng trầm lắng
Răng rắc sành đau
Bung vỡ nợ nần
Mạch cao lanh chìm dần theo lộ trình đô thị hóa
Và cả cuốn sách
Nhạt nhòa
Có những điều vừa đọc sáng nay

Tháng bảy lang thang
Gầy guộc lưng cong sắm sửa cho ngày cúng tổ*
Bao nhiêu va chạm xô bồ
Hòa âm cùng phố chiều sầm uất
Vọng từ phía xa xa

Nơi thế đất xòe ra hình đôi cánh nhạn
Bàn tay xoa xoa vuốt vuốt

Bàn chân đạp đạp xoay xoay
Chiều đổ qua mái hiên nghe rả rích giọt đời thủ công mỹ nghệ
Nhìn nhau cười dửng dưng…

________

* Ngày 6.7 âm lịch hàng năm là ngày cúng tổ nghề gốm.

 

KHẤN MẸ

 

Cha đem nước độc rừng thiêng
Chạm vào mẹ giữa chợ phiên lỡ thì
Dẻo thơm quan lộ cha đi
Tập tàng mẹ lựa thị phi mang về

Dầu hao nghiêng bóng câu thơ
Trà sen chưa đượm, tóc tơ chưa dày
Áo xô thấm khói cuối ngày
Con tung vốc trấu…từ rày mồ côi!

Ngoái trông sáu cửa luân hồi
Thưa mẹ! Hai mấy năm rồi còn đâu
Ngồi đong trọn gánh mưa ngâu
Cắn răng trích dẫn nông sâu riêng mình.

TRÁC PHI

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *