Vanvn- “Tây Nguyên không phải Shangri-La nhưng/ chứa đầy huyền thoại/ phía trong bình đài/ tộc người đi tìm tự do khi chân trời đã mất/ di chỉ còn là ánh mắt đồng vị/ và loài người lầm lụi bước đi/ biểu tượng Tôtem chỉ còn mật mã”
Nguyễn Đức Hưng sinh ngày 30.5.1987 quê quán Xuân Hội, Nghi Xuân, Hà Tĩnh hiện công tác tại Trung tâm Y tế huyện Kon PLông ở thị trấn Măng Đen, tỉnh Kon Tum.
Đã có nhiều thơ viết về Tây Nguyên, nhưng với thơ Nguyễn Đức Hưng thì có khác. Vẫn là Tây Nguyên huyền thoại bí ẩn nhưng bằng tình yêu, cảm quan và góc nhìn của một trí thức khoa học trẻ, anh đã soi rọi, đối chiếu, tái hiện, dự cảm để tạo dựng trong thơ mình một không gian Tây Nguyên riêng từ vỉa tầng lịch sử, văn hóa đến số phận con người và thiên nhiên. Một Tây Nguyên bị mai một, tàn phá, mất mát, đớn đau như “lễ hội đâm trâu hoài niệm trong lời kể/ nền văn minh đã tuyên án mất rồi” nhưng vẫn còn nét phồn thực, lãng mạn bay bổng đầy quyến rũ “ghì chặt nhau điệu xoang rũ rượi/ thả hồn theo chiếc lá thông rơi”. (PH)

EM VÀ THÁNG BA
tháng ba nỉ non ghim vào ngón tay gầy
hoa lau trắng bung trời thương nhớ
em ngập ngừng giữa thênh thang đại lộ
phố phường in bóng nắng…
tháng ba
mùa con ong vội vàng đi lấy mật
vũ điệu hân hoan trong ánh chiều tà
sợi thổ cẩm mắc vào cơn gió
nhà sàn thấp thoáng khói xa
bông pơ lang thắp lửa hồng đỏ đót
em giấu điều gì hỡi những ưu tư
tháng ba nhảy vào dòng suối
quẫy tung nỗi nhớ vơi đầy
ghì chặt nhau điệu xoang rũ rượi
thả hồn theo chiếc lá thông rơi
những ngôi nhà cao tầng nép vào nhau mà lòng em chật chội
tháng ba
ánh trăng bạc lạnh rừng già
vệt mi em khép cong hồi ức
em mơ thấy
già làng cặm cụi đẽo những bậc thang bằng đất
cho em bước vào năm tháng xa xăm
tháng ba em cất giấu âm thầm
về một địa đàng tan vỡ.
CHẠY ĐI EM
nếu cánh cổng làng chật hơn đôi mắt
chạy đi em
mang theo tiếng thở dài của cha những đêm rừng động
nếp nhăn trên trên trán mẹ khi thác lũ tràn về
mang theo một cơn mê
con ma trành làm nhà sau đuôi hổ
voi mai táng chính mình trong nghĩa địa thâm u
chạy đi em
nếu gặp loài cua đỏ đè lên xác nhau tìm về tiên tổ
đừng quay lại… chạy đi
lễ hội đâm trâu hoài niệm trong lời kể
nền văn minh đã tuyên án mất rồi
cánh cổng làng trăm năm nay vẫn thế
tượng nhà mồ nhe hàm răng phóng đại mải mê cười
vía của làng treo nơi đầu suối
ngủ mơ một bát cơm tươi
gạt những dây gai bám quanh phận người bé mọn
ném chiếc dao cùn vào lửa cháy
chưa bao giờ gọt nên hy vọng
đạp gãy chiếc khung cửi già nua
chưa bao giờ dệt nên số phận
nếu cánh cổng làng quá chật
chạy đi em.
VIẾT TRƯỚC CỔNG CHÙA
những con chim sẻ buồn xo
ngơ ngác xếp hàng nhìn dòng người đạo đức
nối đuôi lặng im trước pho tượng nghìn tay nghìn mắt
linh thiêng trắng bợt, vàng ươm
con xù lông co rúm chán chường
con ưỡn ngực gồng mình
khao khát được rong chơi cõi phù sinh sung sướng
ranh giới nào trước cánh cửa Tam quan?
những con già hơn trải qua những kiếp nạn
bắt nhốt bất an
49 ngày rồi…
luân hồi ở đâu ra?
tháng bảy mưa ngâu
những linh hồn lưu lạc
nhảy nhót rong chơi khi tội ác
buộc lên đầu chú chim sẻ con con
những chú chim hoài nghi rúc đầu vào tượng phật
tưởng là cõi niết bàn siêu thoát
ngờ đâu, ấm ức hóa thân
tháng bảy mưa ngâu
tưởng được phóng sinh…

MẬT MÃ TÂY NGUYÊN
phía sau vách núi
lọt thỏm giữa lòng thung
người đàn bà Xơ Đăng ru con bằng lời cổ tự
bức tượng nhà mồ thô ráp buồn tênh
níu rách lưng trời bấu tay vào khe đá
nhặt đầy những mảnh vỡ phôi thai
tiếng đàn đá người Raglai
tiếng âm trầm cồng chiêng Cơ Ho
không chỉ là những thanh âm
chuỗi mã hóa của ngàn đời dội lại
hoa văn trên váy áo Ba Na
chấm phá trên khăn choàng Giẻ Triêng
không chỉ là màu sắc
bản đồ của nguồn cội hồng hoang…
hàng triệu năm trước
trong cuộc di trú lang thang
loài người hạnh phúc tìm ra hang đá
hàng triệu năm sau
trải qua biết bao chu trình tiến hóa
loài người xây hang đá để chui vào
Tây Nguyên không phải Shangri-La nhưng
chứa đầy huyền thoại
phía trong bình đài
tộc người đi tìm tự do khi chân trời đã mất
di chỉ còn là ánh mắt đồng vị
và loài người lầm lụi bước đi
biểu tượng Tôtem chỉ còn mật mã
khi bên ngoài vách đá
một chu trình ngược dòng tiến hóa
và loài người đang hối hả đào hang.
HỒI ỨC
già làng ngồi chống cằm bên ngôi nhà sàn lợp tôn
mắt đăm đăm nhìn chiếc cầu thang bạc phếch
mảng bê tông trắng như vòng quay ký ức
xoắn vặn vào buốt nhói mênh mang
những giai điệu từ cái thủa xa xưa trầm mặc hồng hoang
tiếng cồng chiêng
leng keng từ đĩa nhạc
vỡ thành từng mảnh thời gian khô khốc
dòng suối con sông khóc cạn dòng meo mốc
trơ khấc vài vũng nước nhỏ nhoi tôm cá mất đường về
lão thở dài nhìn lại mảnh trăng quê
trăng giận dỗi quay đầu tránh ánh nhìn trăn trở
ôi…
cái thời trăng còn bỡ ngỡ
rừng còn nguyên lành
khuôn ngực em chơm chớm mơ xanh.
NỖI BUỒN CỦA EM
em gùi nỗi buồn lên rẫy
nhấp nhô trên những đỉnh đồi
nơi đây trở trời nắng cháy
hững hờ thác đổ mây trôi
em gùi nỗi buồn trong đó có tôi
có lời hứa người đồng bằng
cùng em bữa cơm rau rừng bên suối
con chuột rừng mang tội
buồn hiu nằm dưới đáy gùi
em đổ nỗi nhớ ra phơi
nỗi nhớ chảy theo tiếng mưa
xóa mất dấu chân người quên lối
đôi mắt tôi sám hối
như cây non nhiễm nấm
quằn quại sau mưa vùi
em ngồi đếm mầm xanh sót lại
hy vọng nào nảy nở
trên đôi mắt em tôi
khói bếp thương ai ngủ mơ qua những mùa đứt gãy
sợi mây không trói nổi đời người
em xót xa đếm thanh xuân qua áng mây vời vợi
dưới tán lá rừng còn lại em thôi.
NỖI NIỀM XUYẾN CHI
Lặng lẽ
Những bông hoa xuyến chi
Nở một đời vội vã
Cũng như em
Cả một thời tất tả
Bám theo những bước lãng du
Xuyến chi mỏng manh khô đét xuân thì
Dành cả tuổi trẻ tròn căng phung phí
Chỉ cần
… giả vờ được yêu
… giả vờ che chở
quên đi lý trí
Tự huyễn hoặc mình mơ mộng gọi tên
Người phũ phàng gỡ những ngón tay gầy guộc… chẳng quen
Bấu chặt lấy mình khó chịu
Ném vội bên đường…
Những bông hoa xuyến chi thổn thức
đanh lại quắt queo
Thành những cái ngoắc câu
Tiếp tục cuộc hành trình đeo bám
Tìm kiếm thứ tình yêu chẳng đến lượt mình
Là xuyến chi dại dột niềm tin
Gieo hy vọng được một lần bung nở
Xuyến chi than thở
Nỗi niềm xuyến chi
Đời dài hay ngắn
Sống tạm bợ để yêu thương tạm bợ
Rồi chết mòn trên lối nhỏ hóa thơ.
NGUYỄN ĐỨC HƯNG