Chùm thơ Đinh Ngọc Diệp: Gió vét sạch mùa màng, tôi bội thực niềm vui

Vanvn- Trên bến thuyền chỉ còn tôi đứng đợi/ Ngày sắp xóa bóng hình, tôi nhập đá Tràng An/ Như cơn lốc bất ngờ. Em đến/ Gió vét sạch mùa màng, tôi bội thực niềm vui/ Xiết bàn tay. Chạm ngón em đeo chiếc nhẫn mặt đá/ Trên tay em. Trên tay em. Trên tay/ Em

Nhà thơ Đinh Ngọc Diệp ở Thanh Hóa

CON CÁ TO TỰ MẮC LƯỚI MÌNH

(Tặng ngư phủ Sầm Sơn)

 

Biển mênh mông

Ông tự giam chòng chành trên chiếc mủng

Đêm trên đầu đội mát cả vầng trăng

Trưa nỏ nắng tràn mi muối xót

 

Vương quốc tròn đường kính một sải tay

Ông tự tin khoanh bão gió bên ngoài vành thúng

Một cheo lưới hai cánh tay một hy vọng

Đuôi sóng nối chấm tròn thành chiếc gáo múc trùng khơi

 

Chiếc độc bình lênh đênh khi quay, khi vẽ thành lối thẳng

Ông từ ngõ ra đi, theo lối ngõ về nhà

Sau hàng dậu thiếu phụ cầu bể lặng

Bước chân dồn òa tiếng trẻ gọi cha

 

Ống bương(1) cá đeo hông nhịp vào mông lúc lắc

Cheo lưới trùm vai tự dính lưới ngày

Ông – con cá to nhúng đại dương thành sóng

Bước lên bờ, biển đắm một kình ngư.

 

… VÀ MỘT NGƯ DÂN KHÁC

 

Ngoài đường gió bấc lồng như ngựa vía

Người từ biển lên nước cắn theo chân

Nhức căng bàng quang rét tụt vòi không xả được

 

Thay vội quần áo khô thắp nén hương đưa tang hàng xóm

Từ nay không phải rét nữa rồi

Năm 2020.Tháng 12 dương. Ngày 31

Cửa sông tiễn anh, lúc thuyền về trở mặt thành cửa chết

Sóng lật thuyền nơi cập bến bình yên

 

Người vĩnh viễn lên bờ

Đắp tấm chăn bằng đất. Giữa đồng xa

Vợ biết làm gì để nuôi bốn đứa con anh đủ tuổi lại lên thuyền?

 

Người nằm đó từng trần lưng cùng biển mặn

Chưa kịp thiếu niên đã theo ông đánh vật với lưới chài

Nhá một miếng nguội ngắt cái gọi là cơm

Bè luồng không chỗ an toàn chắn sóng

 

Ngay tối ấy trời trở ấm

Quần tụ tốp bạn chài cười vỡ quán khuya

Gã trai làng 32 tuổi. Chưa vợ

Hững hờ nhắc đám tang bạn mình như từ lâu lắm

Người đàn bà đứng tuổi đi qua, độc miệng bâng quơ:

– “Chó lấy!”

 

Anh cũng như hầu hết trẻ trai

Không có cơ hội bỏ làng kiếm miếng

Vất vả nặng nhọc đã thành như định mệnh

Đâu cần phải khoe

 

Điều anh muốn giấu thì cả làng đều biết

Thỉnh thoảng thử vận may, đánh một con đề

Thắng, thua cũng chả là gì

Mua vui bằng mớ cá bán cho người buôn ngay ở bến thuyền

Tiền nhét túi về thẳng nhà, xin lại mẹ vài chục nghìn bạc lẻ

 

Tôi không biết có chàng trai biển nào ngoan hiền hơn

Tiện thì uống trà, chỉ để like câu chuyện

Rượu chỉ nhắm khi có hiếu hỉ và trước khi bước lên bè

Không biết anh và bạn anh có nghe

Người đàn bà phũ phàm kia đang nói oang oang với chủ quán:

– Thằng đang hô hố cười ngoài bàn tê, tôi bữa mô cũng ghi đề cho hấn(2)

Chiều qua lật thuyền sóng đánh dạt vô đầu núi

Thoát được lên bờ, mặt còn vết đá chém thâm đen.

 

VỚI HÀNG CỘT LỚN CHÙA TAM CHÚC

(Tặng nhà báo Dương Nữ)

 

Cây cột nghìn cân

Đẫy vòng ôm

Nâng đỡ cả khung nhà dựng uy nghi một ngôi Tam Chúc

 

Người tựa vào hay cột dựa vào

Đến được hôm nay, con dựa tiếng ầu ơ… mẹ dìu con qua những chặng đường xoáy lốc

Thân gái can trường làm cuộc nhân sinh

Cây cột vút cao. Giới hạn mái che ghì xuống thân mình

Những lá đề buộc chân tảng thành vòng như bị xích

 

Không so được vai người thênh thang vai núi

Chợt biến hết những cạm bẫy không ngờ ngỡ ập xuống ngáng chân!

Thấu đến cả mùi hương thinh không khuyến mãi

Nạp năng lượng thân tâm, vững chãi đôi chân tiếp đất

Hai cánh tay thu vào, mắt chớp trời cao

Thấu lẽ huyền vi: tồn tại là chuyển dịch

 

Ngoảnh lại: cột và chùa nhỏ dần lẫn vào chiều u tịch

Hít căng phổi luồng khí trời chiêu tuyết

Những giọt li ti tuần hoàn nơi máu huyết

Người tự mình làm chiếc cột bước chân đi…

 

ĐÁ TU BAO KIẾP ĐẾN NƠI NÀY?

 

Tràng An – uốn lượn đá giăng thành

Đối diện mình, đá lồng bóng sông hồ mênh mang tụ thủy

Khuyến mãi miếng vàng 24k – nắng điêu khắc lên vách núi

Ráng mỡ gà loang loáng nước ngược lên

Chân đá ngấn rêu núi ló khỏi dòng còn vết sém

Tạo tác triệu năm – đá bén duyên cùng nước

 

Đá tu bao kiếp đến nơi này?

 

Miền đá nổi, Nhà thờ cũng đá

Cổng đá – cuốn thư mềm lụa mắt người

Vọng tiếng kinh cầu. Thành kính nhịp ngân như hát

Đức Jê – hô – va thấu thị nỗi trần ai

Trước cổng nhà thờ, mọi thứ ngoài thân tâm bỏ lại

Con “mẹc” thời trang, chiếc xe máy tàu hoen cũ

Bên người trai chèo đò đưa du khách viếng Tràng An

Theo chị xe ôm, trong veo cặp mắt biếc xanh

Đôi trẻ nắm tay nhau từ I – ta – li – a

Đất nước nơi Thánh đường Rô – ma Chúa ngự

Và Vơ – ni – zơ thành phố nước thần tiên

Còn ngẩn ngơ trước kỳ thú Tràng An

Nghìn năm đá dồn mưa ngâm thối đồng chiêm

Nước và đá nay vượng mùa du lịch

 

Đá tu bao kiếp đến nơi này?

 

Miếng vàng nắng đã rớt vào chiều muộn

Cây thập giá nóc nhà thờ chọc thủng hoàng hôn

Đỉnh đá Tràng An – một thân khô nhúng vào bóng nước. Niềm tin

Mái chèo vô tình chém hình hài tan nát

Chỗ núi thủng ló mầm xanh – chút dịu dàng của đá

 

Đá tu bao kiếp đến nơi này?

 

Trên bến thuyền chỉ còn tôi đứng đợi

Ngày sắp xóa bóng hình, tôi nhập đá Tràng An

Như cơn lốc bất ngờ. Em đến

Gió vét sạch mùa màng, tôi bội thực niềm vui

Xiết bàn tay. Chạm ngón em đeo chiếc nhẫn mặt đá

Trên tay em. Trên tay em. Trên tay

Em

 

Đá tu bao kiếp

Đến nơi này!

Tranh của họa sĩ Nguyễn Lương Sáng

NHỮNG THỬA RUỘNG DỆT HÌNH CÁNH BƯỚM

 

Mế đi nương,

cười nụ cười của con trong vòng tay bà ôm giấc mơ hé nụ

cắm một dảnh mạ ruộng khô, tai râm ran tiếng con lớn học bài

tra hạt ngô, kẽ đá trổ mầm xanh bàn tay xoè vẫy

chân đá nở ra ruộng rẫy từng ngày

 

Nữ sinh mộng mơ ướp cánh bướm sổ tay

không ngờ mở cả trang trời bướm thở

Cánh bất động soãi ra, tim vẫn đập giữa ngực em

 

Du khách thử tay liềm

xúng xính váy như mây khấp khểnh gặt mùa người

ai bảo bướm không mơ bay trên lãng du

tự do tự sướng

 

Tự vỡ kiếp lênh đênh, mây rụng những cơn mưa

chôn phù du vô nghĩa

nhập hộ khẩu, khai sinh trên mặt đất thật mình..

 

… VẪN GIẤU KHUÔN MẶT MÌNH DÙ NGHÌN TUỔI CAN QUA       

 

Tôi đặt chân lên đất thành Cổ Loa

Đứng một chỗ, mường tượng đi hết một vòng thành phục chế

Khác gì chú kiến ngoài kia nhẫn nại bò quanh vành nón mẹ

Không phải để kiếm mồi, chỉ tình cờ gió đặt lên đây

 

Dưới vành nón là mẹ già không ló mặt

Bàn tay nhăn nheo cầm ngửa tờ tiền

Của ai đó vừa cho, nón úp sụp ánh cười trong mắt mẹ

Thành Cổ Loa ơi! Góc nào xưa chỗ mẹ tôi ngồi?

 

Dẫu đổi phận, nàng Mỵ Châu úp nón ăn xin thay mẹ

Thục Vương ơi! Sao người đặt niềm tin vào lòng dạ quân thù

Mẹ thành Công Chúa yêu theo Vua bỏ trốn trên lưng ngựa

Gươm Triệu Đà mượn tay Người chém ngang cổ Mỵ Nương!

 

Nhìn ảnh vệ tinh: thành Cổ Loa như cái nấm nhỏ nhoi

Tôi đứng đây, không thấy chỗ mẹ tôi xưa bệt cỏ

Một người mẹ khác đến ngồi, trẻ hơn nghìn tuổi mẹ

Vẫn giấu khuôn mặt mình, dù nghìn tuổi can qua!

 

GIẤC MƠ TRỞ VỀ LÒNG SUỐI CŨ

 

gọi tên cây: thủy bặn(3)

tôi trên thuyền lướt qua cùng bao nhiêu người

ngắm

tuổi tác và mùa chớm đông

đè hai cánh tay tôi lụi xụi

 

những cẳng tay thủy bặn xác xơ trắng

tủa trời

đó là sự mạnh mẽ

hay rừng cây đã giương cờ hàng

sương muối chưa về

da cây bạc hơn sương

 

chê suối chật, vật mình đổi kiếp

từ lòng suối lên bờ – những con cá hóa thân mang tên thủy bặn

hoá cây nên cá không bơi

đứng chờ mưa thâm định đoạt

 

ngước lên cao

đàn chim xếp hình bay đi tránh rét

thủy bặn ơi, làm sao mọc cánh để theo đàn

suối róc rách cách một bước chân

Cá bỏ suối mà đi, giờ nhớ nước cũng không thể lội

 

Suối Ấu hẹp lòng, dòng chảy nhẹ hơn

trôi vô ưu?

không –

nước vuột đến cuối nguồn

không một bóng ì uồm cá quẫy

tiếng cá cười trong như thủy tinh

mùa đông

nước là người mẹ kiệt dòng vì không được chở che ôm ấp cá

khi đàn con nhảy hết lên bờ

và không sao về lại lòng suối cũ.

 

MANG TRÁI TIM HOANG MẠC CÁT HÀNH TRÌNH

 

Ngựa trôi mất hút vào biển cát

Bộ lông sọc vằn

Sóng cát loang xa

 

Không cần biết bao giờ đến đích

Ngựa nghiêng đầu đánh hơi ốc đảo đâu đây

Không cần biết có thể quỵ trong cơn khát

Chú ngựa đi đâu?

Không nói bao giờ

 

Ngựa sọc vằn lẫn vào sóng cát

Xa dần

Hòa vào đường vân cát nở mênh mông

Chỉ sa mạc đang cuộn mình

Sóng gối sóng

Sa mạc nhấp nhô thay cho lưng ngựa

Biển gọi cuối chân trời

 

Có tiếng hí rền vang không trung

Tiếng ngựa gọi nhau?

Sa mạc cát ù lì ngăn mọi hành trình tới biển

Chôn chân mọi thứ bước qua mình

 

Sa mạc

Mượn tay gió vẽ ngụy trang vằn ngựa

Chú ngựa

Mang trái tim hoang mạc cát

Hành trình.

 

THƠ CHÂN DUNG

(Kính tặng họa sỹ Đặng Mậu Tựu ở Thừa Thiên – Huế)

 

Tôi thấy ông

Những mảng, nét đan cài với nền giấy trắng

 

Người thuộc về không gian bên ngoài khuôn mặt

Chỉ gửi vào đó một mảng tóc

mực nho

giấy trắng như miền mây trắng

 

Vầng trán hóa thạch

Đá tiền đạo cho bầu trời

Khung thành – môi ông mím chặt

Gió chiều phệt vào chân dung

hàng hậu vệ râu ria

 

Và đôi mắt

Đen

Tia nhìn tinh quái

 

Những tranh ông vẽ, có thể tôi chưa hiểu

Siêu thực hay trừu tượng

Ông trước mặt tôi – cũng chưa hiểu hết

Luôn có một cái gì ngáng trước

Ngoài ý muốn

 

Màu trắng bên ngoài sẽ trở thành nghi ngại

Ông thu mình thành nụ cười chưa đặt tên.

 

ĐINH NGỌC DIỆP     

__________________________

 (1)Theo truyền thống, các ngư phủ Sầm Sơn thường mang theo ống bương có nắp đậy, trong đựng gạo, thức ăn dùng khi ra khơi và đựng cá tôm…lúc trở về.

(2) Tiếng địa phương Thanh Hóa, có nghĩa: “Thằng đang hô hố cười ngoài bàn kia, tôi hôm nào cũng ghi đề cho hắn”.

(3) Cây thủy bặn: Loài cây thân gỗ mọc hoang thành rừng bên bờ suối Ấu, khu danh thắng Kim Sơn – Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Vào tiết thu lá cây thủy bặn rực vàng quyến rũ; mùa đông lá rụng trơ cành, nhìn xa chỉ một màu trắng bơ phờ pha tím nhạt, giống phong cảnh một vùng châu Âu xứ lạnh. Là cảnh đẹp, lạ hấp dẫn du khách.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.