Vanvn- Nhà thơ, Đại tá Cao Nguyên Quyền dường như bị buộc vào thơ từ đầu năm 2018, khi ông đã chạm vào đáy thẳm nỗi cô đơn của một kiếp người. Sau hơn 38 năm lăn lộn trong quân ngũ, ông về hưu tại quê nhà, những mong tìm gặp sự bình yên, êm ấm. Nhưng…, không ngờ sự đời trớ trêu…, ông lại một mình thui thủi trong ngôi nhà hạnh phúc của mình khi người vợ yêu thương đã sớm ra đi.

Rêu sương Cẩm Thủy là tập thơ mới của ông xuất bản ngày 18.10.2021. Trước đó, ông đã in một tập thơ Gom lại ngày xưa, Nxb Thanh Hóa, 2020 chỉ có giá trị vui bạn vui bè và giải tỏa một phần nỗi u uẩn nội tâm. Tập thơ mới này đã đột chuyển bất ngờ, dường như đã chạm khắc rõ bản thể thi sĩ Cao Nguyên Quyền. Tôi cho rằng đây là một thi phẩm thơ nhiều sáng tạo, nhiều mới lạ trên một phông nền truyền thống và bản sắc văn hóa Mường cộng với bản chất người lính Cụ Hồ…
Cao Nguyên Quyền tuy mới làm thơ nhưng tâm hồn người lính già ấy giống như một dải ăng-ten bén nhậy và hiện đại nhất… Đã thu phát mọi âm vọng cuộc đời, mọi ngõ ngách buồn vui của một kiếp đơn côi…, tạo ra những quy tắc nghệ thuật riêng cùng một phong cách ngôn ngữ thi ca độc lạ, nhiều ám gợi…
1. Trạng huống tâm hồn lạ nẩy sinh từ một vùng quê bán sơn địa Xứ Mường.
Rêu sương Cẩm Thủy là một tư chất lạ, có sức hút dẫn người đọc về một vùng quê mà Cao Nguyên Quyền suốt đời gắn bó. Nhà thơ vẫn sử dụng chất liệu quê hương, nhưng ông không đi theo vết xe và dấu chân của bất cứ nhà thơ nào. Cái bản thể thi sĩ của ông đã tìm được một cách nói thật riêng, kính trọng sự tự do tuyệt đối của cảm xúc, cảm nhận và suy tư về những giá trị nhân văn và những gì tốt đẹp nhất của cõi người. Thơ Cao Nguyên Quyền một chút lạ về ngôn từ, một chút lạ về suy tưởng, có những kì quái về diễn đạt, câu từ, thi ảnh:
Miền cổ tích – em về // bếp cóng lạnh đôi tay // ta lệch nếp nhăn // dày xéo. (Thắp cho ngày xa)
Hoặc:
Đồng bãi tuổi thơ // Mối dây ngày buộc trâu nghé // Củ khoai lang kỷ niệm // Lum lem chiều…// Ta thức với dòng sông // Dòng sông không xanh như xưa nữa… (Gom nhặt đồng quê)
Hay:
Em trách anh
để lỡ dịp lềnh lâng phút tiên
kìa ánh mắt dồn nén thôi miên…
Tháng ba
Thác Mây lỗi hẹn
đợi dòng xanh mùa nước đổ ta về…
(Thác Mây lỗi hẹn)
Tôi cho rằng nhà thơ Cao Nguyên Quyền đang thả mình vào không gian tự do của cảm xúc và tư tưởng. Ông không buộc bó mình trong vần, trong sự nhịp nhàng của tiết tấu… Tuy nhiên đọc kĩ ta vẫn thấy có tiết tấu bên trong của tâm hồn, có vần điệu được bắt vào nhau rất tinh vi. Những câu thơ gọn ghẽ, cô đọng, vừa giản đơn vừa phức điệu, luôn gợi cho người đọc một điều gì đó về tâm trạng, về xúc cảm, có độ mở của sự liên tưởng và suy tư. Chẳng hạn hình dáng như cán mai, cán thuổng – Một vùng quê khốn khó, nhà cửa lác đác, xác xơ,… Tất cả những điều đó hiện ra sau lớp ngôn từ tưởng chừng như cằn mộc. Hoặc những Củ khoai lang kỷ niệm đã đánh thức cái ngày xưa văn vắt, cái kỉ niệm trong veo của đứa trẻ xứ Mường chỉ biết chơi với núi, đùa với sông, lăn lóc với rêu xanh, mơ màng cùng sương trắng.
Trong thơ ông, hình tượng chiều cũng được luống gợi cùng sự mô tả của ngôn từ nghệ thuật: Lum lem chiều, loi doi, lềnh lâng: những từ láy lạ, chưa hề xuất hiện trong từ điển… Nhưng người đọc vẫn hình dung ra được buổi chiều ấy đẹp và mơ ảo đến thế nào. Vì vậy, tôi cho rằng việc sáng tạo, tìm mới theo cái bản thể thi sĩ của mình luôn làm cho nhà thơ mở tạo được những từ ngữ, thi ảnh mới. Nhìn chung, thơ Cao Nguyên Quyền tưởng chừng vẫn đi theo những thi cảm quen thuộc, vẫn gắn chặt với đời thường bằng những sự vật, hiện tượng, núi sông, cây cỏ, quê hương… Nhưng lại đầy mơ ảo, gợi ám và mở ra nhiều chiều liên tưởng.
Đọc kĩ Rêu sương Cẩm Thủy, tôi thấy có nhiều câu thơ rất ngắn, ba chữ, hai chữ, thậm chí một chữ,… Tuy nhiên cái sự ngắn này lại bắt nhịp và đồng điệu với nhịp tâm hồn tác giả. Điều này không bao giờ do kĩ thuật làm thơ đem lại, mà là do sự đột khởi của hồn thơ- điều mà nhiều nhà thơ lớn vẫn thường nói là do: Ma làm, thần linh mách bảo hoặc trời xui đất khiến,…: Khi mặt trời mỏi ngày gác núi // quầng sáng lắc lư trên đầu các Mẹ // Bắt đầu của những ngón tay // rạch đêm // cấy // mùa!!! (Đồng đêm); Bây giờ // Tóc bạc trắng mây rượu // Ngày gặp lại // Cạn // Đêm // Trăng // Thức! (Đêm – Bạn & Trăng) hay Gió mở cửa xuân // Gõ mặt mây vội vã // Mùa lau bay // Sơn nữ // Hát xường…(Xường phai)
Dẫu vậy, điều lạ lùng là dòng xúc cảm, điệu tâm hồn của CNQ vẫn không bị gẫy hẫng, luôn luôn tuôn chảy thành một dòng, có thể cồn nổi, có thể âm trầm mà vẫn hoàn toàn nhất quán.
Đến với Rêu sương Cẩm Thủy, tôi bị đắm vào một không gian nghệ thuật rất riêng, một thế giới lạ lùng của ý thức và vô thức, một cái tôi thi sĩ ngỡ già mà rất trẻ, ngỡ trẻ mà rất đa đoan, khao khát. Tôi được thoải mái lượn bay và suy ngẫm trong cái thế giới độc lạ này…:
Lềnh lềnh sương
Vỡ dưới chân chiều
Mõ lốc cốc
Dắt hoàng hôn về bản
Nhà ta bếp lửa
Mùi hương trùm đáy gió
Xôi nếp nương
Thả vào mùa
Om om tiếng khèn
Thơm eo đá
Sương bệch bạc nguồn thơ
Lật hồn quanh lũng núi…
(Sương núi)
Hoặc:
Bóng của tấm lưng cong nở một nụ cười
tiếng cười là phẳng chiều cương
chỉ còn từng đốm xanh ý nghĩ
ngày mai
ngày mai…!!!
(Mưu sinh)
Hay:
Pù Luông ngập khói trời
mù mịt tràn mắt cỏ
lũ lúa ngô nghê chẳng ngủ
lôi thôi hồn mình.
(Từng chiếc lá quen)

2. Tiếng thở dài quẩn quanh
Đọc Rêu sương Cẩm Thủy, không hiểu sao tôi cứ phải dừng lại ở rất nhiều chỗ, bởi những lát cắt của nỗi buồn như thể đã rơi thành nhiều mảnh nhỏ… Và, những mảnh nhỏ ấy bắn thẳng vào hồn tôi… Dường như tất cả những mảnh vỡ ấy đã nối dài thành một sợi dây, mà sợi dây ấy có những nút thắt với khoảng cách không đồng đều… Đấy là điều kì quái mà tôi rất ít gặp ở những tập thơ khác. Có lẽ từ khi tôi yêu thơ và say đọc thơ đến bây giờ, tôi mới thấy có vài tập thơ như thế…? Điều kì diệu là Cao Nguyên Quyền có nỗi đau không nhỏ: Câu thơ rót sứt vành be // giọt trăng thả nhẫy bóng nhòe đầm khuya…!!! (Muộn trăng) và Kim hoen góa vá bấy lâu // chỉ vương tay rối // Se nhàu lóng đêm // Sứt tà treo móc lặng yên // So le chùng vạt vắt lên tháng ngày (Áo mồ côi)… Thì ra sự buồn của một phận người gắn chặt với những gì cụ thể, bình dị, thân thương nhất và cả những khát vọng, ước mơ và lối sống của một kiếp thi nhân…
Lẫn lạc giữa Mênh mông căn nhà // âm u điều tịch mịch // khuya khoắt mài lõi buồn trăn trở // từng ren, từng ren xoáy kín chỏm trời // Miền cổ tích – em về // bếp cóng lạnh đôi tay // ta lệch nếp nhăn // dày xéo (Thắp cho ngày xa). Từng hơi thở, nhịp đập đâu ai nghe được, chắc có lẽ chỉ có mình em – người đã xa rời thế nhân này hiểu được mà thôi. Cái cô trầm những ngày mưa gió, cái rạc buồn trong tiếng côn trùng khuya khoắt, cái trống trơn vô nghĩa của một kiếp đời dư… Đã giằng xé và phủ nhận nhau trên những dòng thơ ân tình và thắt nghẹn của Cao Nguyên Quyền.
Thơ Cao Nguyên Quyền đã phất nghĩ ra ngoài vùng giá lạnh để ấm áp lòng mình và cả lòng người đọc nữa: Rợn lòng trên những đường tay // Cỏ gai nhằng nhịt chẳng hay được mình. (Lục bát ngày mưa); Anh thương em lời nói thật // về làm vợ không // em hãy nói để anh được yên lòng (Mùa Pồn Pôông tiếng cồng giục gọi).
Tôi chưa lập gia đình nhưng qua trải nghiệm sống của tôi, tôi hiểu những cặp vợ chồng yêu thương nhau, chung thủy với nhau suốt đời là rất quí và rất hiếm. Vì vậy, khi vợ chồng ông sống bình dị trong yêu thương và gắn bó, ông chỉ làm được những vần thơ kiểu câu lạc bộ! Nhưng khi bác gái ra đi, ông rơi vào vực thẳm của nỗi đơn côi và niềm vô vọng. Bao nhiêu dự định ngày xưa của một anh lính Cụ Hồ, bao nhiêu khát khao sau cuối của một bà bác sĩ đều vụt tắt. Ông hẫng hụt, nhiều đêm mất ngủ, nỗi cô đơn như hàng ngàn mũi tên đâm xoáy vào thân thể và trái tim ông…! Nhưng trong lần thắp hương vợ ông nhân 100 ngày mất, ông nghe thấy bà thầm bảo: – Anh phải sống! Phải mạnh mẽ như ngày anh còn là người lính!
Tôi nghe nhịp tâm hồn ở thơ Cao Nguyên Quyền thường được thể hiện ở hai hình tượng rất chủ quan đó là “Vợ” và “Sự cô độc”. Nó góp phần quan trọng tạo nên một “Bản thể” lạ, riêng khác để rồi ông được thơ chọn như nhà thơ Võ Sa Hà đã nhận định trong lời mở của tập thơ: Nỗi đau mất người bạn đời yêu quý và sự cô đơn trong chính ngôi nhà của mình tưởng chừng sẽ khiến Anh gục ngã…? Nhưng không! Thơ đã kéo Anh đứng dậy, làm hồi sinh cái BẢN THỂ THI SĨ ở trong Anh!!!.
3. Cao Nguyên Quyền thổi hồn Mường qua ngôn ngữ
Ngay từ nhan đề tập thơ đã thấy sự thôi thúc không hề nhỏ khiến ông viết về Cẩm Thủy. Tên tập thơ là Rêu và Sương mang thương hiệu Cẩm Thủy…, khiến người đọc phải ngẫm nghĩ… Cẩm Thủy là gì? Cẩm Thủy ở đâu? Rêu sương Cẩm Thủy là thế nào? Tại sao tên tập thơ lại có một thứ ở tận đáy đất gắn kết với một thứ ở tận đỉnh Giời? Cái tên ấy lôi người đọc vào tìm hiểu. Đúng là đáng đọc, vì:
Lum hum hốc tối // lôộc khôộc – lạc khạc // bầy trâu đi ngập ngõ // đỉnh Làn Ai (*) bồi hồi// Păng Póp(**) liệng bay // Ới à Ờm ơi! // ới ơi Ờm hỡi! // Cái vía nàng khôn // Cái vong nàng kheo // Linh thiêng tỉnh lại! // Ới ơi Ờm à! // Ới à Ờm ơi! // về thôi, về thôi // Bố Mế không chê nhà khó // về làm dâu đi! (Về thôi nàng Ờm)
Hoặc:
Thung lũng vanh tròn trăng ngủ lại!//Cồn cào tháng chạp ngậy hương //Hội về rồi //Tiếng cồng mê hoặc tròng trành em (Xường phai)
Cao Nguyên Quyền được sống và yêu ở quê mình: Hai xã Cẩm Giang cộng Cẩm Tú – Cẩm Thủy – Thanh Hóa đến bi giờ vẫn còn khá hoang sơ, nơi có Suối cá thần, từ lâu đã trở thành một điểm tìm đến của người Việt và du khách nước ngoài. Nơi đây – một vùng bán sơn địa đậm chất văn hóa Mường với kho tàng văn nghệ dân gian đặc sắc. Từ thuở bé thơ, chú bé Cao Nguyên Quyền đã được nuôi dưỡng trong các bài mo, những câu tục ngữ, thành ngữ Mường, những bài hát ru em, những trường ca dân gian, những bài đồng dao,… và cả biết bao lễ hội Mường đặc sắc như: Lễ Pồn Pôông; Lễ mừng cơm mới; Lễ trao duyên, lễ cưới hỏi,… tất cả những điều đó không chỉ là di sản văn hóa Mường mà còn là phần đậm nhất trong cái bản thể thi sĩ của ông. Bởi vậy, ông đã đưa những giá trị văn hóa ấy vào ngôn từ thi ca việt một cách nhuần nhị và gợi ám: Một vùng bán sơn địa // loi doi mấy chục nếp sàn // nghèo đói nên gọi: Làng Gầm // hình dáng như cán mai, cán thuổng // Xiên chen dãy núi, dòng sông//… Câu xường đổ ướt tuổi thơ // chúng tôi lớn lên áo manh quần vá // tuổi chớm yêu! Hũm nước làm gương (Ký ức làng tôi); Khi mặt trời mỏi ngày gác núi // quầng sáng lắc lư trên đầu các Mẹ // Bắt đầu của những ngón tay // rạch đêm // cấy // mùa!!! (Đồng Đêm)
Người Mường ngày xưa sống trong những ngôi nhà sàn 4 mái truyền thống, tập trung ở những vùng thung lũng hẹp hoặc doi đất ven sông hay những mảnh ruộng, chân các dãy núi cao. Làng bản mường sống thành từng chòm, ẩn dưới bóng râm của núi và cây cối xung quanh nhà. Mỗi bản Mường thường có 20 đến 30 nóc nhà, thi thoảng mới có những bản hơn 50 nóc nhà… Vì vậy Cao Nguyên Quyền đã bị ám ảnh từ nền văn hóa cổ xưa và bền vững của dân tộc mình. Khi ông làm thơ, tất cả những điều đó đã hồi sinh, thức dậy cồn cào và mãnh liệt. Đó chính là điều khiến cho thơ ông luôn gợi tìm cho độc giả những điều tưởng chừng đã khuất lấp với thời gian.
Thơ Cao Nguyên Quyền đã đánh thức các giác quan của người đọc: từ thị giác, khứu giác, vị giác, hay thính giác và cả xúc giác nữa. Chúng ta có thể cảm nhận từ hình tượng Mẹ quê như thế:
Mẹ quây bao hạt ngọc // Cùng giọt mỏi mặn cay // Thêm này! Hương của đất // Thành xanh trời ngất ngây (Bánh chưng của Mẹ); Mo cơm gói lẫn ôi thiu // Đường xa bữa tạm liêu xiêu tháng cùng…!!! // Rũ chiều tạc dáng mẹ cong // bao nhiêu tượng võng vào trong tủi hờn (Mơ trưa).
Nhiều khi ông đứng ở mảnh đất nhà mình mà trở trăn, day dứt trước nỗi bi thảm của dịch bệnh Covid 19: Ôi núi mòn hơi thở // Ôi hồn người trên lưng // Ôi sông buồn thế kỉ // Tàn tích hòa lâng khâng… (Lửa đen).
Hình tượng, biểu tượng và dòng tâm cảm của Cao Nguyên Quyền đã nhập hòa với những gì thẳm sâu và bền vững của bản Mường mình, tộc người mình mà vẫn đậm chất Văn hóa Việt trong sự hội nhập tuyệt vời của 54 dân tộc trên mảnh đất Việt Nam này:
Bóng của tấm lưng cong nở một nụ cười // tiếng cười là phẳng chiều cương// chỉ còn từng đốm xanh ý nghĩ // ngày mai // ngày mai…!!! (Mưu sinh),…
Rêu sương Cẩm Thủy mới chỉ in có 45 bài theo chủ đề Rêu và Sương của Xứ Mường Cẩm Thủy. Tôi được biết ông còn nhiều bài thơ nữa, ông muốn để ở tập thơ sau… Xin trân trọng giới thiệu một hồn thơ xứ Mường Cẩm Thủy với quí độc giả.
NGUYÊN NHƯ (LÊ NGỌC DŨNG)