Vanvn- Trong các thể loại mà nhà phê bình văn chương lấy làm đối tượng để bình giá, để phê bình, tôi thấy việc đọc cho “vỡ chữ” thơ (thẩm thơ) là điều khó khăn, phức tạp nhất và cho dù thế nào, cũng khó có ai thuộc thế hệ sau Hoài Thanh có thể “qua mặt” ông trong việc bình thơ, dù thơ của thế kỷ XXI rất khác với thơ của thế kỷ XX.

>> Bi kịch “đọc không vỡ chữ văn chương” – Phần 1
Khó nhất là vỡ chữ thơ
Trong các thể loại mà nhà phê bình văn chương lấy làm đối tượng để bình giá, để phê bình, tôi thấy việc đọc cho “vỡ chữ” thơ (thẩm thơ) là điều khó khăn, phức tạp nhất và cho dù thế nào, cũng khó có ai thuộc thế hệ sau Hoài Thanh có thể “qua mặt” ông trong việc bình thơ, dù thơ của thế kỷ XXI rất khác với thơ của thế kỷ XX. Nhưng thế kỷ nào thì cũng cần thơ hay, cũng có thơ hay và những bài thơ hay của ngôn ngữ của quốc gia này vẫn được dịch thật hay sang ngôn ngữ quốc gia khác. Về dịch thơ, tôi nghĩ bản dịch Đợi anh về của thi sĩ người Nga Simonov được nhà thơ Tố Hữu dịch sang tiếng Việt, hoặc bài thơ Không đề của Olga Bergol, cũng thi sĩ người Nga, được nhà thơ Bằng Việt dịch sang tiếng Việt đã là những thí dụ sáng giá về dịch thơ.
Về Thơ Mới, có lẽ không thể thiếu sự bình giá thật đích đáng của Hoài Thanh, như một tri âm lãng mạn nhất và có ứng xử văn hóa nhất đối với Thơ Mới trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học Việt thế kỷ XX, trong bối cảnh hiện đại của Việt Nam giao lưu văn hóa với phương Tây.
Việc đọc vỡ chữ Thơ Mới của Hoài Thanh, đương nhiên, được/phải gắn kết biện chứng, thật “liền ruột” với cách diễn đạt tiếng Việt của ông, cũng thật là mẫu mực về sự trong sáng, uyển chuyển và tinh tế trong cái viết của một nhà phê bình thơ. Vì vậy, có khi phải là một nhà văn mới có thể viết bình luận về một nhà văn, và một nhà văn sáng tác tác phẩm văn chương và một nhà văn bình luận tác phẩm văn chương là hai công việc cùng bản chất sáng tạo và, đương nhiên, tác phẩm của cả hai đều bình đẳng dưới ánh sáng mặt trời.
Xin chú ý về một đoạn thôi, khi Hoài Thanh viết về Thế Lữ, người khởi đầu Thơ Mới ở những năm 30 của thế kỷ XX, trong Thi nhân Việt Nam, với sự phát hiện đúng là của một kẻ tri âm về cái mới, mang tính tiền phong của thơ Thế Lữ: “Độ ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng Thế Lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công của Thế Lữ đã dựng thành nền Thơ Mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về Thơ Mới, không bênh vực Thơ Mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ. Bởi không có gì khiến người ta tin ở Thơ Mới hơn là đọc những bài thơ mới hay. Mà thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến kết cấu âm thanh. Thế Lữ đã làm rạn vỡ những khuôn khổ ngàn năm không di dịch. Chữ dùng lại rất táo bạo. Đọc đôi bài, nhất là bài “Nhớ rừng”, ta tưởng chừng những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường”.
Tưởng không có lời nào huy hoàng, đích đáng hơn Hoài Thanh, khi viết về sức mạnh riêng của con chữ thơ Thế Lữ, với vai trò thi sĩ tiền phong, khởi đầu trào lưu Thơ Mới.
Di chuyển từ kịch bản lên sàn diễn
Như thế, hoàn toàn không ngẫu nhiên, việc đọc vỡ chữ của nhà văn làm nghề phê bình văn chương, còn liên quan đến một công việc sáng tạo vô cùng quan thiết với các loại hình nghệ thuật khác, khởi đi từ văn chương, thí dụ nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, âm nhạc… là chuyển từ ngôn ngữ phi vật thể của kịch bản văn học sang ngôn ngữ vật thể của vở diễn trên sàn diễn, hoặc của bộ phim trên màn ảnh phim truyện. Về chuyện di chuyển đầy sáng tạo và cũng đầy thú vị này, tôi tin vào một bậc trưởng thượng của giới sân khấu, đó là NSND Nguyễn Đình Nghi, con trai trưởng của NSND Thế Lữ, hai cha con chiếm hai nửa đầu và nửa cuối thế kỷ XX về công cuộc đưa nghề đạo diễn từ châu Âu vào Việt Nam và kiến tạo nghề này một cách vững chắc ở Việt Nam.
Đạo diễn là một nghề mang tính chỉ huy tổng thể đối với sân khấu. Muốn làm cái nghề đưa tác phẩm văn học kịch lên sân khấu này, theo Nguyễn Đình Nghi, việc đầu tiên của người đạo diễn là phải chứng tỏ quyền năng hành nghề ở khâu đầu tiên, hoàn toàn liên quan đến văn chương, đó là “đọc cho vỡ chữ” văn bản kịch. Nghĩa là đạo diễn có quyền lựa chọn kịch bản văn học, có khả năng làm hỏng một kịch bản hay, hoặc làm hay hơn một kịch bản trung bình. Một khi đạo diễn đã tìm được cách đọc kịch bản và cách dàn dựng trên sân khấu thì cả tác giả kịch lẫn diễn viên kịch đều khó bề cưỡng chống. Đạo diễn phải là người hiểu, cắt nghĩa, giải thích tác phẩm theo cách riêng của mình, khi ấy văn bản kịch sẽ mang ánh sáng của riêng người đạo diễn. Cùng một kịch bản văn chương, mỗi đạo diễn sẽ có cách ứng xử văn hóa riêng, càng riêng càng độc đáo, tất nhiên, riêng ở đây không có nghĩa là phản bội tinh thần của người viết kịch.
Nguyễn Đình Nghi nhấn mạnh rằng, đạo diễn kịch phải là người hiểu kịch bản, “tiêu dùng” nó như một khám phá, để làm bệ đỡ cho một ngôn ngữ khác, đó là dàn dựng vở diễn, chứ không phải hề đồng lóc cóc chạy theo nhà viết kịch. Và ông dẫn ra một thí dụ rất hay từ một bài thơ tình trong kho tàng thơ cổ Trung Hoa. Theo trí nhớ của ông, bài thơ có nguyên văn chữ Hán: Quân tri thiếp hữu phu/ Tặng thiếp song minh chu/ Cảm quân triền miên ý/ Hệ tại hồng la nhu/ Hoàn quân minh chu song lệ thủy/ Hận bất tương phùng vị giá thì… Ông tạm dịch nghĩa cho tôi: Chàng biết thiếp có chồng, vẫn tặng thiếp đôi ngọc minh châu. Cảm cái tình sâu nặng của chàng, thiếp đeo ngọc trong áo lót mình màu phấn đỏ. Nhưng nghĩ mình là gái đã có chồng, không muốn phụ lời vàng đá với chồng, đành rơi lệ mà trả chàng đôi ngọc, hận vì không gặp chàng từ khi còn là gái chưa chồng. Khi bài thơ được dịch sang tiếng Việt, ông Nghi thấy ai cũng dịch thật sát nguyên văn cái hình ảnh đẹp nhất của bài thơ: thiếu phụ ấy đã khóc mà trả lại đôi ngọc minh châu cho người tặng. Ông Nghi cũng hiểu y chang như thế, ngay cả khi đọc bài thơ nguyên bản chữ Hán. Bỗng nhiên ông được đọc bài thơ ấy bằng tiếng Pháp do một người Trung Quốc dịch. Người đó dịch: Em xin trả lại chàng đôi ngọc. Đấy là hai giọt nước mắt em rơi xuống. Ông Nghi lập tức thấy vỡ ra một điều gì đó giống như một phát hiện. Bài thơ bỗng lạ hẳn, mới hẳn, hay hơn hẳn và rực sáng như khuôn mắt đẹp lúc xuất thần. Từ đó, ông liên tưởng đến sức mạnh tư duy của người đạo diễn sân khấu, và khẳng định: Hệt như dịch giả Trung Quốc trong bài thơ dịch này, người đạo diễn phải có sức khám phá, phát hiện riêng, phải đẩy cho được kịch bản lên một tầm cao mới, trong ngôn ngữ vở diễn trên sân khấu. Bởi vậy, tự thân kịch bản văn chương đòi người đạo diễn sân khấu buộc phải có sức biện biệt về văn học, sức biện biệt này càng mạnh, càng lớn, thì người đạo diễn càng hay, càng độc đáo. Vì thế, khi tôi đối thoại với ông về nghề đạo diễn cách đây đã vài chục năm, ông Nghi từng thú nhận cảm giác rợn ngợp khó tả của ông khi đứng trước… chữ của văn bản kịch, y như đứng trước một cánh cửa khép kín, mà thoạt đầu không thể tìm ngay chìa khóa mở cửa.
Là người tự trải nghiệm sâu sắc về văn hóa đọc… chữ kịch bản để chuyển sang cái dàn dựng sân khấu, Nguyễn Đình Nghi không bao giờ tin một kịch bản hay lại lồ lộ phơi trần tất cả những ý nghĩa của nó ngay lần đầu chạm mặt. Bao giờ kịch bản hay cũng mang trong lòng nó những ý chìm sâu, lắng đọng mà chừng nào ông Nghi chưa tìm ra nó, thì chưa thể yên tâm bắt tay vào dàn dựng. Song, là người đọc tinh tế, ông cũng không bao giờ muốn kết luận thô thiển: tác phẩm văn học kịch chỉ nên viết một cách vừa phải, để dành khoảng trống cho đạo diễn và diễn viên bù đắp, khi chuyển ngữ sang vở diễn sân khấu. Theo ông, một kịch bản đích thực là văn chương không phải là nơi để nhà đạo diễn sân khấu thêm thắt, bù đắp, mà chính là một kho báu cho đạo diễn phát hiện, đào bới mãi cũng chưa đi hết giới hạn văn chương cuối cùng của nó. Chính vì thế, dù cho Shakespeare đã viết kịch bản Hamlet kỹ lưỡng đến thế về văn chương kịch, thì hoàn toàn vẫn có chỗ và còn rộng chỗ cho đạo diễn và diễn viên trên toàn cầu sáng tạo sân khấu và điện ảnh. Trên thực tế, đã có hàng trăm bản dựng của hàng trăm đạo diễn và cũng thế, hàng trăm vai diễn Hamlet khác nhau trên toàn cầu. Càng gặp đạo diễn và diễn viên có tài thì chàng hoàng tử Đan Mạch ấy càng lộ diện nhiều khuôn mặt và số phận nghệ thuật phong nhiêu trên sân khấu và màn ảnh thế giới.
Cuối cùng, Nguyễn Đình Nghi cho rằng việc khám phá chữ nghĩa của văn bản kịch phụ thuộc vào việc đạo diễn phải đặt mình vào trạng thái sáng tạo của nhà viết kịch, nghĩa là trạng thái… viết của người tạo con chữ trên mặt giấy, để cố gắng sống lại tâm ý của người viết, khi tạo nên tác phẩm kịch, rồi thì mới làm được công việc tiếp nối của đạo diễn là đưa các con chữ lên, “vật thể hóa” nó trên sàn dựng và sàn diễn. Và chỉ khi nào người đạo diễn tìm ra trong công việc ấy một niềm hạnh phúc sáng tạo thì việc dàn dựng vở diễn mới có thể bắt đầu. Ông Nghi, khi nói những điều này, cũng hiểu rõ: một tác giả kịch không chỉ thể hiện bộ mặt tinh thần của mình chỉ qua một tác phẩm. Vậy, đấy lại là điều nhà đạo diễn phải tìm kiếm, thí dụ qua vài chục vở kịch, Lưu Quang Vũ muốn nói điều gì canh cánh và xuyên suốt với công chúng Việt vào mấy thập niên cuối thế kỷ XX ở Việt Nam chẳng hạn? Từ đó, Nguyễn Đình Nghi đã tìm được một định nghĩa đích đáng về nghề đạo diễn kịch, trên một căn bản triết lý về sức biện biệt văn học, đối với nghề này, như một đảm bảo bằng vàng cho việc sáng tạo vở diễn kịch. Theo ông:
Đạo diễn sân khấu = người giải thích tác phẩm văn học
Đạo diễn sân khấu = bội số của tác phẩm văn học
Đạo diễn sân khấu = giấc mơ về tác phẩm văn học
Tôi và chúng tôi, những người làm công việc bình luận những vấn đề đặt ra từ sự phát triển đang hết sức phức tạp, đa dạng, bộn bề của nền văn nghệ Việt hôm nay đã đi đến thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, và đang gắng sức nhận thực, phân tích hiện trạng văn hóa đọc hôm nay, đặng tìm cách chuồi ra, thoát khỏi bi kịch “đọc không vỡ chữ”, từ những kinh nghiệm, bài học của tiền nhân, của đồng nghiệp và của những trải nghiệm từ bản thân việc viết phê bình của mình. Và đây là một cố gắng nhỏ nhoi của tôi và cũng là phát biểu có tính trải nghiệm cá nhân về công việc viết bình luận văn nghệ từ chính mình, không có ý nào khác…
NGUYỄN THỊ MINH THÁI
Theo Báo Đại Biểu Nhân Dân