Vanvn- Ông đẹp giai nhưng nhát gái, người làng Khương xưa và cả mẹ cùng bảo vậy. Đau ốm liên miên mà sao nhiều cô mê ba tôi thế không biết! Ô, hay nhỉ! Cái bà Tình điếc bán bánh kẹo cứ xuýt xoa, xán vào anh Đảo đẹp giai ngay trước mặt Mẹ tôi. Rồi cái cô Cậy buôn gạo người Diêm Điềm thuở ấy cứ say tít chồng của người bạn buôn với mình là sao.

Thuở còn cắp sách anh em tôi gọi người thân sinh của mình là Ba, Mẹ. Đây là cách gọi của làng Khương cổ. Tôi thích cách gọi này, nhưng không hiểu vì lẽ gì mà khi lớn lên chúng tôi lại chuyển Ba thành Bố? Có lẽ do anh trưởng tôi gọi trước, rồi chúng tôi theo chăng?
Ba tôi là một sinh linh “cố” của ông Đồ Ba làng Khương. Làng tôi, mà có lẽ cả đất Việt mình rất coi trọng cái công cuộc nối dõi tông đường của một giòng họ. Có lẽ nó đã thành trách nhiệm không thể không hoàn thành của các nàng dâu, trong công cuộc gánh vác giang sơn nhà chồng. Nàng dâu sẽ thành “có tội”, thành dâu “ghẻ” nếu không sinh được con giai cho giòng họ nhà chồng. Bởi thế Bà Nội cả tôi mới cuống lên, mới quyết cưới bằng được vợ cho chồng khi Ông Nội tôi đã ở tuổi 69.
Ba tôi ra đời khi cụ Đồ Ba làng Khương đã sang tuổi bẩy mươi. Giời ạ! Ba tôi kém bác Khương (chúng tôi gọi là bác Sáu, vì bác lấy ông Sáu Chi người làng), người chị cùng cha khác mẹ tới 18 tuổi. Chị em nhà này thời chưa tản cư (trước 1946) không thuận hòa, âu cũng do cái muôn thuở của sự chung chạ giữa bà cả, bà hai. Bà Nội tôi là con nhà nghèo, không xinh xắn lắm lại thấp, và đã rơi sang cái tuổi gái lỡ thì. Con nhà nghèo làng tôi thuở ấy rất khó lấy vợ, lấy chồng. Gái lỡ thì xưa rất tủi!
Chẳng ai muốn buộc vào mình cái tiếng bà cô già, có lẽ vì thế nên bà mới chịu làm lẽ ông Đồ đã xấp xỉ tuổi bẩy mươi. Thật tài tình, thật may cho bà cả, may cả cho cụ đồ và giòng họ Nguyễn Văn làng Khương là ngay năm sau, bà đã sinh hạ được cậu con giai. Đời người cứ như con quay mờ tỏ, như giời định. Bà tôi chắc cũng không thể tưởng tượng được rằng sau này mình lại nằm những bốn mươi chín năm, trong cái chân ruộng nhà cô Thưởng nào đó tít tận làng Ô Mễ Thái Bình.
Ba có được học một trường nào ở Hà Nội không? Đó là câu hỏi của em gái tôi qua điện thoại cái năm nao. Ừ nhỉ, thuở ấy Ba có được đi học không nhỉ? Tất cả anh em tôi đều rơi vào trạng thái “ừ nhỉ” mới kinh. Thật vô lý, thật không thể tha thứ cho sự không biết này của cả một lũ con! Bây giờ thì anh em tôi không còn cơ hội trả lời chính xác câu hỏi này nữa rồi. Đau thật! Tôi thật sự đau! Tôi chỉ có thể lý giải cái sự “vô lý” kia, chứ không thể tha thứ cho bất kỳ ai, nhất là tôi về sự không biết điều này về cha mình. Sự nghèo khó thật đáng sợ! Sự nghèo khó nhiều khi rất có thể đủ quyền năng đẩy con người ta vào sự “vô lý”!
Tự nhiên thì giật mình hỏi thế, thương thật. Nó còn bảo: “Anh viết về Ba như thế chưa được, Ba còn (…)”. Con bé này đã nhiều lần khiến tôi giật mình, chả nhẽ tôi còn nhiều điều chưa hiểu về cha mình? Có lẽ nó đang lặn vào những ký ức về người cha và không thể tự trả lời được đây mà. Bị đẩy vào khốn khó, con người ấy vẫn giữ được cốt cách của người có học, đây chính là mâu thuẫn mà em tôi (và cả tôi nữa) cứ muốn được biết chính xác về sự học của cha mình. Chả được sống gần và gặp nhiều, chị Lợi con bác Khương tôi lại cứ khăng khăng rằng Ba tôi là ông giáo, cứ một hai rằng cốt cách của Cậu là cốt cách ông giáo. Lạ nhỉ! Kể thì người biết chữ trong làng như Ba tôi ngày ấy rất hiếm. Còn có được học một trường nào ở Hà Nội như em tôi hỏi thì tôi nghĩ rằng không.
Thứ nhất là cụ Đồ Ba đã quá già, mà nhà nghèo thế thì cho con theo học một trường nào đó ở Hà Nội sao được (trường lớp thuở đó đâu dành cho con nhà nghèo). Hai nữa là đến tận năm 1917, cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai người Pháp mới đưa chữ quốc ngữ vào bậc tiểu học. Trước đó thì giáo dục bậc tiểu học, bị phó mặc cho các thôn xã và tư nhân. Có lẽ Ba tôi đã được hưởng gien hay chữ của một cụ Đồ, và được cụ trực tiếp dạy chữ một vài năm tại nhà. Tôi nói là chỉ một vài năm, bởi chín tuổi Ba tôi đã phải chịu cảnh mồ côi cha. Có lẽ là thế! Nhưng người mang cốt cách cụ Đồ làng lại là tôi. Mẹ bảo vậy. Ba tôi có trí nhất thật đặc biệt, và kể chuyện cực hay. Ba mê Tam quốc, Đông Chu Liệt Quốc, Chinh Đông… mê Kiều, Cung oán ngâm, Chinh Phụ Ngâm… Đặc biệt là ba mê chùm ca khúc Hòn Vọng Phu của nhạc sỹ Lê Thương. Trong ấy, lại mê nhất là Hòn Vọng Phu hai – “Ai xuôi vạn lý”. Ba chỉ khẽ khàng hát trong những chiều heo may muộn, lúc ấy tôi thấy Người như lẫn vào miền viễn xứ… xa lắm, bồng bềnh mà buồn đến không thể chịu nổi! Lúc ấy tâm tư của Người sao nhỉ, có phải Người thương thân phận của những người phụ nữ trong chiến tranh?
Ba đã để lại trong ký ức tôi cái hình ảnh một lũ con quây lại, nghe chuyện ba kể, ngồi hóng ba lẩy chinh phụ, lẩy Kiều trong những đêm đông rất xửa xưa. Con người ta cũng khó tránh khỏi những biến động thời mình sống, mà đã làm trai thì phải biết đền non nợ nước. Rồi những ngày quyết tử cho tổ quốc quyết sinh trong thành Hà Nội đã lưu lại trong Ba những ca khúc kháng chiến thật ấn tượng, để rồi, lưu mãi trong tôi hình ảnh người cha những khi khỏe mạnh, rảnh rỗi hay nằm giường, bắc chân chữ ngũ và bắt vào sự miên man – Chiều nay, trong chiến khu bên rừng chiều, nắng suối reo ngàn thông réo… Tiến, tiến, lời hô vang…
Ôi là cái sự miên man ký ức!
Nhẩy qua tường, ép người vào bụi chuối trong vụ đánh án Ôn Như Hầu. Tôi chỉ còn lõm bõm nhớ và cố tưởng tượng hình ảnh Ba theo lời Ba kể. Tiếc thật! Bị thương trên đường Khâm Thiên ngay trận đầu của những ngày quyết tử Thủ đô mùa đông năm 1946, đã khiến Ba tôi sau này mất khả năng của một người đàn ông trụ cột trong gia đình. Giờ nhớ lại hình ảnh Ba, tôi xót lắm! Có lẽ đây cũng là nguyên nhân khiến Mẹ tôi phải quyết liệt, phải bảy nổi ba chìm trong công cuộc kiếm cơn. Ngày ấy… xa lắm, ngày Mẹ đưa Ba ra trạm xá làng Song Lãng, rồi về than thở: “Mẹ già lắm phải không, người ta lại hỏi rằng thế cụ với bác đây là thế nào”. Ngày ấy tôi nào có biết gì, nhưng lại không thể quên nét mặt mẹ lúc ấy. Ôi, mẹ tôi!
Khi đã có tuổi, khi đã cách núi cách sông thì bác Khương tôi giật mình xót tình máu mủ. Ba tôi đổ bệnh là Bác quẳng hết công việc xuống Thái Bình với em ngay. Hình ảnh Bác bên siêu thuốc bắc, bên người em trai cùng cha quanh năm đau ốm những năm ấy lưu mãi trong tôi. Rồi Bác cũng không thề thực hiện được điều mình mong ước. Bác dành đất cho em, ba lần đã chất đồ lên xe, cũng không thể đưa gia đình người em về quê để chị em được gần nhau. Chắc Bác tôi đau lòng lăm! Điều này trong tôi vẫn là một bí ẩn.
Sát gái hay gái sát? Có lẽ ba tôi thì thuộc diện gái sát! Ông đẹp giai nhưng nhát gái, người làng Khương xưa và cả mẹ cùng bảo vậy. Đau ốm liên miên mà sao nhiều cô mê ba tôi thế không biết! Ô, hay nhỉ! Cái bà Tình điếc bán bánh kẹo cứ xuýt xoa, xán vào anh Đảo đẹp giai ngay trước mặt Mẹ tôi. Rồi cái cô Cậy buôn gạo người Diêm Điềm thuở ấy cứ say tít chồng của người bạn buôn với mình là sao. Mẹ thì nghiêng ngả cười, khi nhờ người ta đọc cái thư của cô Cậy rủ chồng mình chốn theo là sao? Với tôi, mẹ vẫn còn nhiều bí ẩn. Cả cái cô Tỳ dưới cầu
Kiến Xương thuở cùng làm trong hợp tác xã tiểu thương khu Trần Phú với nhà tôi nữa, thuở ấy tôi đã hơi biết. Cô mê chồng của Mẹ tôi lắm… còn nhiều nhiều nữa, kể thì Ba tôi thuộc loại người “tốn gái”, cũng hơi… vất vả trong cái sự gái sát!
Trong tôi đọng mãi một thuở gia đình tôi rất thái bình, thuở đượm màu thơ Nguyễn Bính. Có lẽ là vào những năm 1961 -1964. Ngày nguyên đán, mây bạc – giời cao – nắng hoe, một lũ trẻ ríu rít trước sau một cặp vợ chồng trên con đường 223 lổn nhổn đá. Người chồng trong bộ véc vàng rất chuẩn, vợ thì khăn nhung đen nhức mắt, áo dài, bao tượng nền nã… tới cầu Báng thì nghỉ lại ríu rít bánh chưng, tới nhà cô Thưởng làng Mễ thì bao giờ cũng là một mâm cỗ rất vui, rồi dắt đíu nhau ra chân ruộng nhà cô thắp hương cho Bà Nội.
Tết năm 1977 anh tôi trong quân ngũ không về, tôi thì rơi vào dở người, quyết không về mà ở lại Quảng Ninh để tìm một cái Xuân Tha Hương… như nhà thơ Nguyễn Bính. Dở thế chứ! Thế là tết đó nhà thiếu đứt hai thằng con giai. Chắc Ba rất nhớ, tôi nói vậy vì không thể quên được hình ảnh ông kéo tôi ra góc giường, đọc nhỏ cho tôi nghe bài thơ tết của ông, dù tôi chẳng thấy Ba mình làm thơ bao giờ:
Chúc mừng năm mới khác năm nao
Nhà ta riêng chỉ một cành đào
Cả nhà trông chờ hai con quý
Nhị tướng chưa về nhớ biết bao!
Ôi ba!
Đêm ấy (1984) gió lớn, tôi phải nằm mãi mới thiếp đi được trong lòng cái xà lan dồi sóng mãi miệt Châu Đốc An Giang… rồi mơ thấy mình gẫy răng, lênh láng máu, rồi tâm thần hoảng loạn, bâng khuâng. Đấy là đêm tôi thành kẻ mồ côi cha…
NGUYỄN KHƯƠNG TRUNG